Merleau Ponty (1908-1961) cho rằng : "Hegel là nguồn gốc của tất cả những công trình vĩ đại từ một thế kỷ". Cùng với Spinoza, rồi Kant, Hegel đã mở đường cho triết học hiện đại.
Hegel có công xây dựng lại luận lý học biện chứng, đưa đến một triết lý mang tính hệ thống chặt chẽ, như một hành trình, với một điểm đến, một mục đích.
Tư tưởng của ông đưa đến nhiều hiểu lầm và bài bác :
- Thí dụ người ta thường chỉ trích những phê phán của Hegel về phụ nữ, về nghệ thuật Ấn Độ, lịch sử chính trị Đông Á, v.v...Thật ra, những phê bình ấy luồn được lồng trong một lý thuyết, như những biên chép ngoài lề. Chúng không quan trọng. Lý thuyết mà Hegel đề ra mới cần chú ý.
- Rồi khi quan niệm một điểm đến, như vừa nói, người ta nghĩ ngay đến một sự chấm dứt : chấm dứt của lịch sử, của triết học, của nghệ thuật ... đưa đến những phát biểu ngoạn mục của hậu thế, nhân danh Hegel, như "không có triết học hiện đại, vì lịch sử triết học đã chấm dứt", "nghệ thuật đã chết", v.v... Cần hiểu : điểm đến là một hệ luận của "tư tưởng hệ thống", nhưng nói đến nó không có nghĩa là Hegel mô tả được toàn bộ hệ thống mà ông nghĩ là hiện hữu, cùng với điểm đến ấy.
- Tương tự như vậy, khi nói đến một mục đích cho mọi hiện hữu, Hegel chỉ quan niệm là nó thật có, nhưng không mô tả nó. Con người có thể giống như chàng hiệp sĩ nọ, ra đi đến một chân trời xa xôi với một sứ mạng, nhưng dọc đường đã quên mất mục đích ấy là gì ? Và cố nặn óc tìm lại ...
- Người ta có thể cãi lại rằng : Hegel có đề ra những mục đích rõ ràng đấy chứ ! Nào tinh thần tuyệt đối, hiểu biết tuyệt đối, ý niệm tuyệt đối v.v... Tuy nhiên, phải công nhận là sau nhiều vất vả tụng niệm đến cuối "Phénoménologie de l'esprit", khi người đọc mong mỏi biết được thế nào là "hiểu biết tuyệt đối", thì Hegel chỉ nói : đó là con đường mà bạn đã đi qua với quyển sách ! Ở cuối sách "Logique", thì ý niệm tuyệt đối mà người ta khao khát đạt đến, lại chính là phương pháp mà Hegel đã chỉ ra ! Phương pháp (méthode) theo nghĩa "con đường" (chữ "methode", đến từ "Hodos" là "con đường"). Thật vậy, theo Hegel, ý niệm luôn tự nắm bắt lại nó trong một sự vận hành thường trực. Vấn đề là đặt được nó trên một con đường hợp lý.
Nói cách khác, những nhà biện chứng như Hegel (hay Marx - Capital, sect 1, chap IV) không có một lập trường "cố định". Thí dụ khi họ nói triết học "không tác động gì" vào thực tại, thì trong khẳng định ấy đã có phản đề của nó là "có một tác động nào đó" trên thực tại. Cũng như khi khám phá các phương trình của hiện tượng "rơi", người ta không thay đổi được luật rơi, nhưng có thể từ các phương trình ấy làm ra máy bay, bay lên thay vì rơi, nhưng vẫn chịu luật rơi. Điều này giúp chúng ta hiểu được những phát biểu của Hegel, kiểu như : đạt đến hiểu biết tuyệt đối cũng là đạt đến tự do tuyệt đối. Thật vậy, khi biết được luật rơi bạn có tự do chọn rơi, hay ngược lại, bay lên trời ...
Tuy nhiên, lại cần hiểu thêm rằng đó chỉ là cục bộ. Thí dụ nắm được vài hiểu biết kỹ thuật, anh có thể lật đổ một chính quyền theo ý chí riêng tư. Nhưng trên một bình diện tổng quát và lâu dài, lịch sử các dân tộc có con đường riêng của nó (dù, theo Marx, con đường ấy không tất yếu ...).
Hegel ( và Marx) dạy cho chúng ta bài học khiêm nhường trước thực tại !
Sự khiêm nhường ấy thể hiện một cách cụ thể trong việc kiên trì đeo đuổi một con đường, theo nghĩa "Hodos" trong chữ "méthode" (phương pháp) nói trên. Con đường (phương pháp) ấy là gì ? Là vượt lên trên những "cảm xúc trực tiếp", để đạt đến tinh thần của một sự kiện. Nói theo nghĩa khoa học vật chất, thì đó là tìm cách kết hợp sự vật (nhận thấy qua giác quan) với ý niệm về nó ("tinh thần" của nó). Thí dụ viết ra được phương trình của một sự kiện vật lý là làm được sự kết hợp ấy (hay ngược lại kiểm nghiệm sự hiện hữu của một thực thể - Boson Higgs, Positron … - tương ứng với một lý thuyết – mô hình chuẩn - hay phương trình - Dirac). Đương nhiên là nó không hoàn hảo. Nhưng đó là một phương pháp, hiểu theo nghĩa "con đường".
Trong lãnh vực nhân văn thì vượt lên trên những "cảm xúc trực tiếp", để đạt đến tinh thần của một sự kiện là tìm đến ý nghĩa của nó, và luôn đặt ý nghĩa ấy trong sự kết nối, tổng hợp, của nhiều sự kiện ... Chúng ta không có nhiều thì giờ, nhưng vẫn có thể tập trung vào vài đoạn trích sau đây để nhận diện ra cái phương pháp của Hegel, và chọn kiên trì theo đuổi nó trong cuộc sống :
-----O-----
Trước hết, cần ý thức sự sai lầm của người "bình thường" cho rằng Hegel, hay triết học nói chung, bàn "chuyện trừu tượng, siêu hình" ... Sự thực là chính những kẻ ấy mới "nói chuyện trừu tượng", như được giảng rõ ở đây :
Suy nghĩ ? Suy nghĩ một cách trừu tượng ? Hãy mau bỏ chạy !
Tôi nghe tiếng tru tréo ấy của những đứa phản bội, bán mình cho quân địch (*). Chúng nguyền rủa bài viết này vì trong đó, vấn đề siêu hình học được nêu lên. Siêu hình - cũng như tính trừu tượng, và cả sự suy nghĩ - là những từ ngữ làm cho chúng tháo chạy như bị ma đuổi. (...)
Dù sao, cắt nghĩa ở đây, thế nào là suy tư, thế nào là trừu tượng, có lẽ hoàn toàn vô ích, chính vì giới mộ điệu đã biết rất rõ thế nào là trừu tượng, lúc họ chạy trốn khi nhìn thấy nó. (...)
Nhưng, ai là kẻ suy tư trừu tượng ? Xin thưa : kẻ vô học, chứ không phải người hiểu biết. (...)
Xin đang cử một thí dụ : có kẻ sát nhân bị đưa lên đoạn đầu đài. Đối với người bình thường, hắn chỉ là một kẻ sát nhân. Nhưng, đôi khi có những mệnh phụ trong công chúng, thở ra vài nhận xét kiểu như : trông hắn thật lực lưỡng, đẹp trai, đáng chú ý.
Người bình thường nọ liền phê phán ngay rằng nhận xét ấy thật tồi tệ. Cái gì ? Đẹp trai ? Một tên sát nhân ? Làm sao có thể đốn mạt đến độ nhìn thấy vẻ đẹp nơi một kẻ giết người ? Các mụ này thật chẳng hơn gì tên tội phạm ! Một linh mục vốn biết rành tận chốn thâm sâu của mọi tâm hồn và sự vật, sẽ thêm lời : đúng là sự đồi trụy đã ngự trị trong toàn thể giới thượng lưu (...)
Thật ra, đó mới chính là những suy nghĩ trừu tượng : chỉ nhìn thấy nơi kẻ sát nhân cái đặc tính trừu tượng rằng hắn là một kẻ sát nhân, để rồi, vì đặc tính duy nhất ấy, hủy diệt tất cả nhân tính của một con người.
Trích : Ai nghĩ trừu tượng ? Hegel (1807)
(*) Hegel nói đến những người trí thức, đặc biệt là những triết gia, chạy theo thị hiếu của đám đông, phản bội triết học.
Ghi thêm :
Hegel đảo ngược nhận thức thông thường, tương tự như Platon, khi cho rằng ý niệm con ngựa "thật" hơn con ngựa đang đúng trước mặt bạn ! Ở đây tính chất "con người" của kẻ sát nhân "thật" hơn mọi đặc tính khác, kể cả đặc tính "sát nhân". Thật vậy, hắn có thể bị hàm oan, lỡ tay giết người khi tự vệ, hay đã hối cải trở thành thánh nhân v.v... Khác với câu chuyện của người thường, triết học bàn đến "con người", đến "sự chết" (người ta đem hắn đi giết), những thứ mà, theo Hegel, mới mang một "thực tính" kiên cố.
§§§§§§§§§§
Khi đã khẳng định con đường của mình, đối với tri thức "thông thường", Hegel mời gọi hướng đến mục tiêu của triết học, để "ngửa mặt nhìn lên một bầu trời cao quý hơn, trong sạch và chân thật hơn, trong đó, mọi đối kháng của thực tại hữu hạn biến mất, và sự tự do, vì được triển khai không ngăn trở và chướng ngại, đạt đến mục tiêu tối thượng của nó". Xin mời đọc :
Tự do là mục tiêu của Triết học
Tính năng cao nhất mà con người có thể có được, chúng ta chỉ gọi nó bằng một chữ : tự do. Tự do là điểm đến cao nhất của tâm trí con người. Ở đó, con người không đối diện với bất cứ gì xa lạ, hiện hữu trước mặt để ngăn cản nó, mà ở chỗ trước mặt ấy, chỉ nhận ra chính nó. Đương nhiên là mọi ràng buộc và khổ đau đều biến mất. Người ta hòa hợp với thế giới và tự thỏa mãn trong đó. Mâu thuẫn , đối kháng không còn nữa. Nhưng sự tự do này không thể tách rời lý tính nói chung, cũng như đạo đức trong hành động, và sự thật trong suy tưởng. Trong đời thường, con người bắt đầu bằng nỗ lực hóa giải các mâu thuẫn (thấp nhất) nơi mình qua việc thỏa măn những nhu cầu vật chất. Tuy nhiên, tất cả, trong loại lạc thú loại này, đều tương đối, hạn chế, vô thường. Vì thế, người ta lần sang lĩnh vực tinh thần, để tìm hạnh phúc và tự do qua khoa học và hành động (1). Với khoa học, con người xóa được sự ràng buộc của thiên nhiên, bằng cách chiếm đoạt và khắc phục nó (2). Người ta cũng tranh thủ được sự tự do trong hành vi thực tế, giữa xã hội công dân, khi thực hành lý tính và luật pháp tương hợp với ý chí của mình, ngoài mọi sự gò bó. Tuy nhiên, mặc dù trong thế giới của luật pháp, tự do được công nhận và tôn quý, các khía cạnh tương đối, chấp nhất và thiển cận luôn hiện diện, khiến sự tự do ấy lúc nào và ở đâu cũng bị gò bó. Thế là con người, mang khát vọng giải thoát giữa những bức tường giam hãm mình từ mọi phía, ngửa mặt nhìn lên một bầu trời cao quý hơn, trong sạch và chân thật hơn, trong đó, mọi đối kháng của thực tại hữu hạn biến mất, và sự tự do, vì được triển khai không ngăn trở và chướng ngại, đạt đến mục tiêu tối thượng của nó. (...) Bằng tư duy thuần túy, vươn đến sự giác ngộ tính nhất quán ấy, chính là mục tiêu của triết học. Hegel - Esthétique (1835), Tome I (1) Hành động phù hợp với "khoa học" tức với lý tính. (2) Như khi bạn biết được luật rơi của thiên nhiên, thì bạn có thể chế tạo những phương tiện để bay lên, nếu muốn, tức tranh thủ được một sự tự do mới.
§§§§§§§§§§§
Triết học và khoa học – Suy nghĩ « Hệ Thống » :
Biết được mục tiêu của triết học theo Hegel, chúng ta có thể bắt đầu quan sát xem triết học ấy hình dáng ra sao ? và được biết nó rất giống khoa học, nhưng tăng cường thêm với các vấn đề Ý Nghĩa và Giá Trị :
Triết học và các khoa học khác giống nhau vì đều dựa trên thực nghiệm. Nhưng triết học chỉ chấp nhận và sử dụng thực nghiệm. Nói cách khác : triết học thừa nhận sự phổ quát, cũng như những quy luật, thứ loại, được mô tả trong các khoa học ấy, và hội nhập chúng vào nội dung của mình, nhưng đồng thời lại đưa vào các phạm trù này những phạm trù khác, đem lại cho chúng những giá trị và ý nghĩa đặc thù.
Khác biệt giữa khoa học và triết học chỉ nằm ở sự chuyển đổi phạm trù.
HEGEL, LA SCIENCE DE LA LOGIQUE
§§§§§§§§§§§§§
Con đường khoa học của triết lý mặc định việc suy tư trong phạm vi một hệ thống. Ở đây Hegel đối nghịch với Kant, khi ông này mô tả Hệ Thống như một ảo tưởng :
Suy tư « Hệ Thống » :
Triết lý không hệ thống là phản khoa học. Không những nó chủ quan, mà nội dung của nó còn nặng tính ngẫu nhiên. Nội dung của một luận đề chỉ có giá trị khi nó là thành phần của một tổng thể. Nếu không thì chỉ là giả định vô căn cứ, hay xác quyết riêng tư.
Mặt khác, thật lầm lẫn khi dùng chữ triết học để gọi những triết lý hạn hẹp và rời rạc. Nguyên tắc của một triết học thực sự, là mang trong nó tất cả các nguyên tắc riêng biệt.
ENYCLOPEDlE DES SCIENCES PHILOSOPHIQUES
§§§§§§§§§§
Mặt thật của chân lý chỉ hiện hữu như hệ thống khoa học mô tả hiện thực ấy. Đóng góp vào công trình này, tức đem triết học đến với khuôn mẫu khoa học, chình là điều mà tôi nhắm đến. Khi hoàn thành được mục tiêu ấy, thì triết học có thể từ bỏ tên gọi "yêu sự hiểu biết" (1) của nó, để trở thành hiểu biết thực thụ. (…) Theo cách nhìn của tôi (...), tất cả tùy thuộc một điểm chủ yếu, đó là nắm bắt và diễn đạt Chân Lý, không phải chỉ như thực thể, mà cũng như chủ thể (2) (…)
Chân lý là tất cả. Nhưng chân lý chỉ là bản chất hoàn thành sự thể hiện của nó qua một tiến trình khai triển. Cần nói rõ : Tuyệt Đối chủ yếu là Thành Quả của một tiến trình, chỉ hiện diện ở cuối tiến trình này. Chỉ ở đó, Tuyệt Đối mới là cái nó thực sự là (3).
Hegel - PHENOMENOLOGIE DE L'ESPRIT, PRÉFACE
§§§§§§§§§§§§§§
Tất cả các khoa học đều là thành phần của một hệ thống nhắm đến sự hiểu biết vũ trụ một như một tổng thể có tổ chức. Các khoa học hàm chứa những quan hệ hỗ tương, cái này biện minh cho cái kia. Chúng như những khâu của một dây xích tự đóng lại thành một vòng tròn.
Esthétique Tome I
§§§§§§§§
Mỗi bộ phận của triết học là một tổng thể mang tính hệ thống, một quả cầu riêng biệt. Ý niệm triết học hiện diện trong quả cầu ấy dưới một dạng thức đặc biệt (...). Tuy nhiên, vì mỗi quả cầu tự nó là một tổng thể, nên ý niệm triết học vượt khỏi giới hạn của quả cầu này, để trở thành nền tảng của một quả cầu khác rộng lớn hơn.
Tổng thể toàn diện là quả cầu hàm chứa mọi quả cầu, trong đó mỗi quả cầu là một khâu xích cần yếu, để cho cái hệ thống nối kết mọi thành phần biểu dương được toàn bộ Ý Niệm, đồng thời với sự tiềm tàng của Ý Niệm này trong mỗi thành phần.
ENYCLOPEDlE DES SCIENCES PHILOSOPHIQUES (1817)
Chú Thích :
(1) "Yêu sự hiểu biết" là ý nghĩa của chữ Philo-sophia (triết học) : Philo : yêu - Sophia : hiểu biết.
(2) Hegel quan niệm triết học, và toàn bộ hiểu biết, như một hệ thống. Từ mỗi thành phần của hệ thống ấy, người ta có thể suy ra tất cả các thành phần khác. Nói cách khác, mỗi "sự thật" là chủ thể đưa đến toàn bộ Chân Lý. Nói "X LÀ đúng", hàm ý "sự thật" (đúng) LÀ, như một chủ thể. Sự thật ấy "là" X và nhiều thứ khác, suy ra theo hệ thống.
Mặt khác, trước một sự kiện khách quan, chủ thể suy tư đặt ra những lý thuyết, những "ý niệm", mang tính chủ quan, rồi tách khỏi sự chủ quan ấy để đến gần thực tại một cách khách quan, khoa học. Đó là một tiến trình, đưa Ý Niệm chủ quan đến với Thực Tại khách quan, hòa hợp với nó, để sự hiểu biết rốt cuộc không còn là một hiểu biết từ bên ngoài, cách biệt với "sự vật tự thân", mà là chính sự vật ấy. Sự vật (thực thể khách quan) trở thành chủ thể hiểu biết, trở thành cái ý niệm chủ quan của chủ thể này. Vòng tròn của hệ thống khép lại : từ ý niệm suy ra sự vật, từ sự vật đưa đến ý niệm.
(3) "Tuyệt Đối như thành quả của một tiến trình" cho phép hình dung một sự chấm dứt của lịch sử, vì Tuyệt Đối là cái không còn thay đổi được nữa.
§§§§§§§§§§§§§§§
Biện chứng Pháp
Bây giờ chúng ta hãy bước vào cốt lõi của vấn đề, với Biện chứng pháp lừng danh của Hegel, mà chúng ta có thể nắm bắt dễ dàng nhờ những quan niệm mà chúng ta vừa duyệt qua, về "tổng thể", tức "hệ thống" :
Yếu tố duy nhất để hội nhập tiến trình khoa học, là biết được rằng phủ định cũng là khẳng định, rằng những mâu thuẫn không dẫn đến triệt tiêu trong hư vô trừu tượng, mà chỉ phủ định một nội dung đặc thù. Nói cách khác, phủ định ấy không mang tính toàn diện, mà là phủ định một sự kiện đặc thù (...) tức một sự phủ định chính xác. Sự phủ định ấy hàm chứa nguyên nhân đưa đến hiện hữu của chủ thể phủ định (*)
Hegel, Science de la logique, Premier tome. Premier livre
(*) Thí dụ trái phủ định hoa, nhưng sự phủ định ấy hàm chứa nguyên nhân khiến trái hiện hữu.
§§§§§§§§§§§§
Nụ hoa biến đi khi hoa nở, khiến người ta có thể cho rằng hoa đã phủ định nụ. Khi trái xuất hiện, thì hoa lại bị phủ định như một dạng thức hiện hữu không thật của cây, trong khi trái mới là hiện thân thực sự của nó. Các dạng thức đặc thù ấy đẩy lùi nhau, vì chúng xung khắc lẫn nhau. Đồng thời bản tính lưu động của chúng lại khiến chúng hiện hữu như những giai đoạn của một thực thể đồng nhất trong đó chúng không chỉ đẩy lùi nhau, mà cần đến nhau một cách tất yếu và bình đẳng. Đó chính là nguồn cội duy nhất của đời sống vạn vật.
Hegel - PHÉNOMÉNOLOGIE DE L'ESPRIT, Préface
Người ta thường coi biện chứng pháp như một nghệ thuật ngoại diện có khả năng làm lẫn lộn một cách độc đoán những khái niệm vô định có vẻ đối nghịch nhau. (...) Biện chứng cũng hay được coi như loại trò chơi, đánh đu giữa một lý luận khi tiến khi lùi, che dấu sự vô nghĩa trong tính tế nhị đặc thù của nó (…) Điều vô cùng quan trọng là hiểu được nguyên lý biện chứng. Chính nguyên lý ấy, trong thực tế, là nguyên lý của mọi sự vận động, của mọi sự sống, mọi sinh hoạt, là linh hồn của mọi hiểu biết khoa học. (…) Thí dụ khi nói con người là một sinh vật hữu tử, người ta coi lý do hiện hữu của sự chết như ở bên ngoài con người, và như thế, con người có hai đặc tính : một là sống và hai là chết. Tuy nhiên, cách hiểu đúng đắn là hình dung cuộc sống như mang trong nó mầm mống của sự chết, cũng như mọi sự hữu hạn nói chung, đều hàm chứa sự tự phủ định, tức điều kiện để hủy diệt chính nó. (...) Biện chứng được xác định trong mọi lĩnh vực của thiên nhiên (...) Thí dụ trong sự vận hành của các tinh tú. Một hành tinh ở một vị thế trong một giây lát, nhưng mang tiềm năng hiện hữu ở một điểm khác, và, khi chuyển động, hàm chứa trong sự hiện hữu của nó sự mâu thuẫn với chính nó. (...) Khi biện chứng đưa đến một sự phủ định, thì đó cũng chính là một sự khẳng định, vì nó hàm chứa điều ấy trong nó, đến từ đó, và không thể hiện hữu mà không có nó.
La Science de la Logique, I.
Ghi thêm :
Để tóm tắt, chúng ta có thể nói rằng "sự vật hiện hữu và không hiện hữu vì sự vật chuyển biến". Khi chuyển biến (từ nụ, đến hoa, rồi trái - hay từ vị trí này sang vị trí khác ...), thì sự vật của lúc ban đầu không còn "hiện hữu" nữa (ở vị trí lúc ban đầu, hành tinh mà ta quan sát không còn đó nữa), nhưng đồng thời nó vẫn hiện hữu, trong sự trở thành của nó. Chính vì thế mà sự phủ định (của một sự vật), cũng là một sự khẳng định.
§§§§§§§§§§§§§§§§§
Vấn đề hiện hữu :
Được trang bị bởi Biện Chứng Pháp, chúng ta có thể bắt đầu vài thực tập,thí dụ như với chủ đế HIỆN HỮU ...
Trước hết cần hiểu rõ là những gì đến từ giác quan ("sự thật" được kinh nghiệm) chỉ diễn bày trình độ nghèo nàn và trừu tượng (!) nhất của thực tế. Muôn vươn lên được đến một "sự thật" cao hơn, chúng ta phải tìm đến "ý tưởng thuần túy" để có thể quan niệm "hiện hữu thuần túy".
Ý Tưởng thuần túy :
Chính ý tưởng thuần túy và những quy định đơn thuần của tư tưởng là đối tượng và chất liệu của luận lý. Cái mà thông thường người ta coi như những ý tưởng, thật ra không phải là ý tưởng thuần túy, vì nội dung của chúng đến từ kinh nghiệm. Trong luận lý, những ý tưởng được nắm bắt như thể chúng được sinh ra bởi tư tưởng, và không mang một nội dung nào ngoài nội dung của chính tư tưởng (1). Khi ấy ý tưởng mới là ý tưởng thuần túy (2), và tinh thần cư ngụ trong chính nó, để đạt đến tự do, vì tự do là ở trong chính mình, là trở thành nguyên lý quy định chính mình (3). (...) Phải khởi đi từ hiện hữu, vì hiện hữu thuần khiết vừa là tư duy thuần túy, vừa là yếu tố trực tiếp, đơn giản, không bị quy định. Thật vậy, chúng ta không thể khởi đầu bằng bất cứ gì gián tiếp và đến từ một sự quy định
(...)
Ghi thêm :
(1) Kinh nghiệm đến từ bên ngoài và làm cho chúng ta lệ thuộc vào cái "bên ngoài" luôn thay đổi ấy. Trong khi điều được bàn đến ở đây, tức là luận lý, thì được coi như bất biến, không thay đổi (trong hệ thống của nó), tức ngược hẳn lại các hiểu biết do kinh nghiệm. Tư duy "luận lý", như vậy, chỉ quan tâm đến những hiện hữu bên trong nó.
(2) Hegel cũng nói : "Phạm trù của ý tưởng thuần túy bao gồm những hiểu biết rất thông thường như hiện hữu, không hiện hữu (cái ấy "có" hay "không có" - NHV), sự quy định (nó từ đâu ra - NHV), một và nhiều, v.v... Tức là : không có chi để hoảng hốt, chúng ta đều rất thường ở trong luận lý (chúng ta đều muốn những gì mình nói hay nghĩ là "có lý"), và đã ở sẵn trong ý tưởng thuần túy !
(3) Hegel nhắc lại quan điểm Tự do, như mục tiêu của triết học. Khi không còn bị lệ thuộc bởi "bên ngoài", người ta sẽ chỉ ở trong chính mình, và đạt đến tự do. Điều quan trọng cần nhận rõ là triết lý hiểu biết của Hegel cũng bao gồm việc tìm đến thực tại để kiểm nghiệm những gì mình nghĩ. Đó là một phong cảnh khác của hiểu biết, từ một cao điểm khác trên con đường biện chứng.
Hiện Hữu cũng là không Hiện Hữu
Hiện hữu thuần khiết ấy là trừu tượng hóa thuần túy, và vì lý do ấy, là sự phủ định tuyệt đối. Phủ định tuyệt đối này, khi được nắm bắt cùng với hiện hữu trong giây lát trực tiếp, chính là không hiện hữu (...)
Không hiện hữu, khi đồng hóa với giây lát trực tiếp, thì tương đồng với chính nó, để, nhìn từ phía nó, là một với hiện hữu. Vì thế, thực tế của hiện hữu, cũng như của không hiện hữu, thể hiện trong sự thống nhất của chúng. Tính thống nhất ấy, là sự trở thành (...)
Mệnh đề : "hiện hữu và không hiện hữu là một" thật trái ngược với những gì người bình thường hình dung và suy nghĩ, khiến họ có thể không tin là mệnh đề ấy thực sự nghiêm túc. Thật vậy, đây chính là công việc khó khăn nhất của tư duy. Lý do vì hiện hữu và không hiện hữu đối nghịch nhau trong thể dạng tuyệt đối trực tiếp của chúng, khiến người ta nghĩ rằng trong cái này không thể có bất cứ quy định nào cũng bao hàm tương quan với cái kia (...)
Tuy nhiên, nếu thực tế là "hiện hữu và không hiện hữu là một", thì cho rằng chúng khác nhau cũng là một sự thực. Cái này không là cái kia.
La Science de la Logique
Ghi Thêm :
Trần Đức Thảo giải thích tương quan giữa hiện hữu và không hiện hữu, với ba nguyên lý :
1) Mọi sự vật hiện hữu, đồng thời không hiện hữu, vì nó chuyển biến
2) Điều không hiện hữu, cũng hiện hữu, vì quá khứ không còn hiện hữu, thành tựu trong hiện trạng của lúc này, và tương lai chưa hiện hữu, đã bắt đầu hiện lên, cũng từ cái hiện trạng lúc này ấy.
3) Mọi sự vật đều là chính nó và là cái khác, vì nó tự biểu hiện như một cái khác trong sự xuất hiện của tương lai đã bắt đầu trong lúc này.
§§§§§§§§§§
Tuy nhiên, trước sự cố chấp vào lý tưởng tự do phổ quát, tức trừu tượng, đặc biệt là trong lãnh vực chính trị, Hegel lại tuyên bố : "tự do phổ quát là sự chết", mở ra một lý thuyết vô cùng sâu sắc về chính quyền :
Chính quyền không thể là gì khác hơn là một phe nhóm. Cái mà người ta gọi là chính quyền, chỉ là phe đảng ưu thắng, và tính cách phe đảng ấy quy định sự suy tàn không thể cưỡng lại được của nó. Chính quyền khi vừa mang tính phe đảng, thì cũng mang nặng tội lỗi"
Một đoạn văn rất khó đọc của Hegel, nhưng có thể thu tóm vào một ý tưởng : tự do phổ quát là sự phủ định mọi cá thể, vì bản chất của cá thể là hành động chống lại nó. Một chính quyền (tức phe nhóm ưu thắng) khi thi hành tự do phổ quát, sẽ gán cho mình sứ mạng tiêu diệt mọi mọi cá thể, hay phe nhóm khác, đứng lên trước mặt nó, mặc dù chúng không có một hành vi chống đối nào. Lý do vì sự hiện hữu của bất cứ phe nhóm hay cá thể nào cũng đáng nghi ngờ, không phải do hành động mà vì những chủ ý giả định ! "Công trình và hành động của tự do phổ quát, như thế, là sự chết", theo lời Hegel, mặc dù ông khẳng định trong một đoạn văn đã được trích dẫn, rằng : "Tự do là điểm đến cao nhất của tâm trí con người", "là mục tiêu của triết học".
Với lập luận này, Hegel tìm cách cắt nghĩa giai đoạn "kinh hoàng" của cách mạng Pháp, và những cuộc chiến chinh giết chóc kéo dài đến cuối thời Napoléon. Đối với chúng ta, quan điểm của Hegel phần nào giúp hiểu được những cuộc tàn sát dưới triều Staline, Mao, hay Khmer đỏ ...
Bây giờ, nếu bạn có đủ can đảm, chúng ta cùng nhau đọc thẳng vào Hegel :
§§§§§§§§§§§§
Hegel- Tự Do, Chết Chóc và Cách Mạng
Tự do phổ quát không thể cho ra một công trình hay hành động tích cực nào. Nó chỉ có thể là những hành động tiêu cực, là sự thịnh nộ của hủy hoại (1). Thực tế cao nhất và cũng mâu thuẫn nhất với tự do phổ quát, hay đúng hơn : đối tượng còn lại duy nhất của nó, là sự tự do và tính cá biệt của một ý thức tự thân.
Sự phổ quát không hội nhập được vào tương quan có tổ chức của hiện thực, đồng thời mang mục tiêu tự duy trì nó trong một sự liên tục bất khả phân (...). Vì tính trừu tượng ấy, sự phổ quát tự chia làm hai thái cực không kém trừu tượng với một bên là tính phổ quát đơn thuần, lạnh lùng, không nhân nhượng, và bên kia là tụ điểm ích kỷ, kín đáo nhưng tuyệt đối và kiên cố của ý thức tự thân trong hành động (2). Một khi nó đã hoàn tất việc hủy diệt sự tổ chức thực tế, và chỉ còn hiện hữu vì nó, thì sự hiện hữu ấy là đối tượng duy nhất của nó - một đối tượng không có bất kỳ nội dung, sở hữu hay hiện diện nào, không có một sự mở rộng nào ra bên ngoài. Đối tượng ấy chỉ là tri thức bản thân, như Tự Thân đặc thù, tuyệt đối thuần khiết và tự do (3). Đối tượng này chỉ có thể được nắm bắt như một sự hiện diện trừu tượng tổng quát. Và tương quan giữa hai thái cực nói trên, vì tính tuyệt đối không nhân nhượng, không chấp nhận một trung gian nào có thể kết hợp chúng, chỉ có thể là sự phủ định thuần túy, không thể hòa giải. Một cách chính xác, đó là sự phủ định tính cá biệt, như một thực thể trong sự phổ quát.
Vậy, công trình và hành động cụ thể duy nhất của tự do phổ quát là sự chết, một sự chết không đưa đến ảnh hưởng nội tại nào, không thực hiện được gì, vì cái mà nó phủ định là một điểm không có nội dung của Tự Thân tuyệt đối tự do. Đó là sự chết lạnh lùng và nhạt nhẽo nhất, không mang ý nghĩa gì hơn việc cắt một bắp cải hay nuốt một ngụm nước.
Đạo lý của chính quyền, trí tuệ và thành tựu của ý chí của mọi con người, nằm trong sự vô vị của cái âm tiết không phát biểu được bất cứ điều chi ấy. Chính quyền tự nó chỉ là sự ngưng tụ của một điểm, sự cá biệt hóa ý chí chung. Với những quyết định và hành động đến từ một điểm như thế (...), chính quyền loại khỏi công việc của nó những cá nhân bên ngoài nó, và tự hình thành như một ý chí nhất định, tức hoàn toàn phản lại ý chí phổ quát. Chính quyền không thể là gì khác hơn là một phe nhóm. Cái mà người ta gọi là chính quyền, chỉ là phe đảng ưu thắng, và tính cách phe đảng ấy quy định sự suy tàn không thể cưỡng lại được của nó. Chính quyền khi vừa mang tính phe đảng, thì cũng mang nặng tội lỗi (4). Nếu người dân có thể nhận thấy trong hành động của chính quyền, những tội ác của nó, thì ngược lại, chính quyền không có gì cụ thể để lên án các ước vọng đối nghịch với nó nơi dân chúng. Vì trước mặt cái ý chí phổ quát đang tác động của chính quyền, chỉ có mong muốn thuần túy của người dân, không thể hiện thực được bằng hành động, tức chỉ là chủ ý. Trong tình cảnh ấy, chỉ cần bị tình nghi là đủ để bị coi như tội phạm (...). Và phản ứng chống lại mầm mống tác động bị giam hãm trong dự tính của người dân, chính là hành vi mạnh bạo hủy diệt sự Tự Thân trong hiện hữu, tức cái thành tố mà người ta không thể mất đi mà không đánh mất chính hiện hữu của mình.
Hegel - Phénoménologie de l'esprit - tome II - VI "L'Esprit"
(1) Ý thức phổ quát nào cũng chỉ có tác động tiêu cực, vì bất cứ tác động tích cực nào cũng sẽ trở thành tác động của một Tự Thân cá biệt, phản lại tính phổ quát
(2) Nó vừa phô bày sự phổ quát, vừa kín đáo ẩn tàng tính cá biệt. Trong cấu trúc này, khuynh hướng vận động tự nhiên là : thực thể phổ quát phủ định thực thể cá biệt
(3) Hegel coi hiện tượng "Kinh Hoàng" trong cách mạng Pháp như biểu tượng cụ thể của sự gặp gỡ, trong trừu tượng, giữa Cá Biệt và Phổ Quát.
(4) Để bảo đảm sự thi hành ý muốn của người dân, Fichte quan niệm một hệ thống kềm chế lẫn nhau giữa người bị trị và phe nhóm cai trị. Hegel phản bác lại, cho rằng điều này sẽ làm tê liệt khả năng hành động cần thiết của chính quyền (Werke, t. VII). Ông nói : "chính quyền bao giờ cũng hiện hữu, vấn đề chỉ là xem xét sự trở thành của nó" (Leçons sur la philosophie de l'histoire, ll). Trong điều kiện ấy, chính quyền luôn tội lỗi, và người dân luôn khả nghi, không phải vì hành động của họ, mà vì dự tính chống đối mà chính quyền gán cho họ.
§§§§§§§§§§§
Bên cạnh tự do, tính phổ quát của mọi sự kiện, cùng với sự trừu tượng cũng như tính xác thực của chúng, khi dựa trên giác quan, cũng được Hegel phủ định và đảo ngược : "tính xác thực đến từ giác quan chính là hình ảnh nghèo nàn và trừu tượng nhất của thực tế". Mời đọc :
Hegel - Hành trình vào Chủ Quan (phần một) : Xác thực đến từ giác quan không xác thực
Nội dung cụ thể của xác thực đến từ giác quan lập tức hiện lên như sự hiểu biết phong phú nhất (...) Sự hiểu biết ấy cũng hiển lộ như chân thực nhất, vì (cảm tưởng) nó bao hàm toàn thể đối tượng được quan sát, không bỏ qua bất cứ gì. Tuy nhiên, trong thực tế, sự xác thực ấy chính là hình ảnh nghèo nàn và trừu tượng nhất của thực tế. (...) Để trả lời câu hỏi : bây giờ là gì, chúng ta trả lời, thí dụ : bây giờ là buổi tối. Giác quan có thể khẳng định điều ấy một cách hoàn hảo. Chúng ta có thể ghi lại trên giấy sự thật này. Một sự thật vẫn là sự thật khi được chép lại và lưu trữ. Bây giờ hãy xét lại cái chân lý đã được biên chép ấy vào buổi trưa : chúng ta phải thừa nhận là nó đã biến đi như làn gió thoảng. (...) Tương tự như thế (...) chúng ta có thể nói : đây là gốc cây. Nhưng khi quay lưng lại, thì sự thật ấy đã trở thành một sự thật khác : đây không còn là gốc cây, mà là một căn nhà. Cái "đây" không biến mất, nó vẫn hiện hữu, và tồn tại với sự biến mất của nhà, của cây, v.v... Phải nói là không gì thay đổi đối với nó, dù cho nó là nhà hay là cây.
"Giờ", "đây" biểu lộ như một sự thật đơn giản được sự dụng như trung gian, một sự thật phổ quát (1). Tính xác thực đem lại bởi giác quan tự nó biện minh cho sự phổ quát ấy như chân lý của đối tượng của nó (2).
PHÉNOMÉNOLOGIE DE L'ESPRlT, Tome I, I (La Certitude sensible ou le Ceci et ma visée du Ceci)
(1) "Giờ" và "đây" là những sự thật bất biến, như vừa nói, nên mang tính phổ quát.
(2) Giác quan gán cho "giờ" và "đây" những "sự thật" luôn biến đổi, mới vừa "là" cái này, đã "là" cái khác, nên chỉ biện minh được cho một chân lý : đó là tính phổ quát của "giờ" và "đây".
§§§§§§§§§§§§§§
Nếu "sự thật" không đến từ giác quan, thì phải quay vào nội tâm, tìm đến "ý thức bản thân", với khó khăn quan trọng là sự xung đột không thể tránh được với ý thức của người khác, với những "ý thức bản thân" khác. Mời đọc :
Hegel - Hành trình vào chủ quan (phần 2) : ý thức bản thân và ý thức tha nhân
Trong bài trước (Hegel - Hành trình vào Chủ Quan (phần một) : Xác thực đến từ giác quan không xác thực), Hegel cho thấy không thể đạt đến thực tại chỉ bằng quan sát sự vật bên ngoài mình. Tức là phải quay vào nội tâm, tìm đến "ý thức bản thân". Khi ấy, một khó khăn quan trọng lập tức hiện ra : tập trung vào ý thức về mình, gạt đi tất cả những gì ngoài mình, đưa đến sự xung đột không thể tránh được với ý thức của người khác, với những "ý thức bản thân" khác ...
Hegel mô tả sự nảy sinh của xung đột (sẽ đưa đến "biện chứng chủ nô") này như sau :
"Đầu tiên, ý thức bản thân là "hiện hữu cho mình" tương đồng với chính mình một cách đơn thuần, loại bỏ tất cả những gì không phải là mình. Bản chất và đối tượng tuyệt đối của nó là cái tôi, và, trong tính trực tiếp ấy, hay trong thực thể của sự "hiện hữu cho mình" này, ý thức bản thân là một sự cá biệt. Những gì không phải là nó trở thành không cần yếu, mang dấu ấn của sự phủ định. Tuy nhiên, ý thức của người khác, mặc dù không thuộc về bản thân mình, cũng là một "ý thức bản thân" ...
PHÉNOMÉNOLOGIE DE L'ESPRlT, Tome I, IV (La vérité de la certitude de soi-même)
§§§§§§§§§§§§§§§
Sự xung đột với ý thức của người khác đưa đến "biện chứng chủ nô", một luận đề nổi tiếng của Hegel.
Điều quan trọng cần để ý là : khi làm việc cho phúc lợi của người khác, kẻ nô lệ chọn một hành vi tiêu biểu cho nhân tính. Và khi tác động trên thế giới bên ngoài bằng công việc làm, hắn kết hợp trở lại với ngoại cảnh, tức đạt đến định nghĩa của tự do. Điều thú vị là, vế biện chứng "người nô lệ", dẫn chúng ta quay về với … tự do !
Mời đọc :
Hành trình vào chủ quan (phần 3) : Biện chứng Chủ Nô
Nhớ đọc ở cuối : "Về Ham Muốn sự ham muốn" và "Vì sao vấn đề chủ nô lại là biện chứng ?
Như đã nói (Hegel - Hành trình vào chủ quan (phần 2) : ý thức bản thân và ý thức tha nhân) sự xung đột với ý thức của người khác đưa đến "biện chứng chủ nô", một luận đề nổi tiếng của Hegel. Đây là một cuộc chiến "sống chết" giữa hai ý thức. Mỗi bên sẽ nỗ lực biểu dương cho đối phương, cũng như chính mình, sự tự do, và qua đó, nhân tính của mình, mặc dù phải trả giá bằng sự chết (điều mà súc vật không thể chấp nhận). Tuy vậy, trừ vài ngoại lệ, sẽ không có ai chết ... Một trong hai ý thức sẽ nhượng bộ, sẽ chấp nhận mất tự do để thoát khỏi rủi ro mất mạng. Đó là "ý thức nô lệ". Mời đọc một đoạn văn của Hegel về vấn đề này :
"Có một sự chiến đấu, vì tôi không thể biết được chính tôi trong sự phủ định của tôi (cái tôi khác), khi nào điều ấy còn là một ý thức trực tiếp đối với tôi. (...) Đấu tranh đưa đến sự nhận biết lẫn nhau là một cuộc chiến sống chết. (...) Vì sự sống cũng cần yếu như tự do, nên trong trận đấu phủ định bằng loại trừ đối phương này, một tình trạng bất quan bình sẽ hiện lên. Một trong hai đấu thủ sẽ chọn sự sống để được tồn tại như một ý thức cá thể, nhưng phải từ bỏ quyền tự do của mình. Đấu thủ kia duy trì sự độc lập, và được thừa nhận bởi đối phương như người chủ. Đó là tương quan chủ nô. Kẻ nô lệ, khi làm việc phục vụ cho người chủ, thì vận dụng ý chí ích kỷ cá nhân của chủ, loại bỏ sự ham muốn trực tiếp của mình (1). Đồng thời qua việc khước từ bản thân vì nể sợ người chủ, hắn đạt đến khởi đầu của khôn khéo, để bước sang ý thức bản thể phổ quát."
Encyclopédie des Sciences Philosophiques § 431 sq.
§§§§§§§§§§§§§§
Nô lệ, khi chấp nhận phục tùng người chủ, thì không còn làm việc cho ham muốn của mình, mà cho sự ham muốn của người chủ (1 bis). Tuy nhiên, chính sự phục tùng ấy, lại khiến hắn thoát khỏi nhà tù ích kỷ luôn giam hãm người chủ, để rốt cuộc làm cho hắn đạt được đến nhân tính và tự do. Thật vậy, khi làm việc cho phúc lợi của người khác, kẻ nô lệ chọn một hành vi tiêu biểu cho nhân tính. Và khi tác động trên thế giới bên ngoài bằng công việc làm, hắn kết hợp trở lại với ngoại cảnh, tức đạt đến định nghĩa của tự do, theo Hegel. Xin mời đọc một đoạn trích khác :
"Khi kẻ nô lệ làm việc cho người chủ - tức không phải chỉ cho phúc lợi của riêng mình - thì sự ham muốn của hắn liền thăng hoa lên một trình độ trong đó sự ham muốn ấy không chỉ là ham muốn của một cá nhân, gắn liền với một bản ngã, một ý chí tự nhiên. Sự ham muốn này, tùy trình độ, vượt cao hơn tính ích kỷ của người chủ, chỉ biết biết gợi lên nơi kẻ nô lệ ý chí trực tiếp của mình (2), thể hiện trên phương diện hình thức một ý chí không tự do. Bằng sự khắc phục bản tính ích kỷ tự nhiên (2 bis) nơi mình, người nô lệ đạt đến khởi đầu của tự do thực sự của con người. Sự rúng động của tính cá biệt trong ý chí, cảm giác hư vô của lòng vị ngã, cùng với thói quen vâng phục, là những giai đoạn cần thiết trong sự đào tạo của mỗi con người."
PHÉNOMÉNOLOGIE DE L'ESPRlT, Tome I, IV (La vérité de la certitude de soi-même)
Nguyễn Hoài Vân phỏng dịch
Chú thích :
(1) và (1 bis) : Về Ham Muốn sự ham muốn
Kojève (1902-1968) coi "ham muốn sự ham muốn", khởi đầu trong "biện chứng chủ nô", như một đặc điểm của tâm lý con người. Thật vậy, khi con vật "chỉ" ham muốn một sự vật, một thức ăn, một con cái ... thì con người ham muốn sự ham muốn được đặt nơi sự vật ấy. Tôi không chỉ thích một món ăn, một nhà hàng, một người đẹp ... mà tôi thích sự ham thích mà rất nhiều người có về món ăn, nhà hàng hay người đẹp ấy. Tôi không chỉ ham muốn một chiếc xe, một căn nhà, một cục sắt gọi là huy chương, một mảnh giấy gọi là bằng cấp, v.v...nhưng tôi ham muốn sự ham muốn những thứ ấy nơi những người quanh tôi. Mặt khác, tôi cũng không chỉ ham muốn một phụ nữ, mà còn ham muốn người ấy ham muốn tôi ...
(2) và (2 bis) : Vì sao vấn đề chủ nô lại là "biện chứng" ?
Ý chí trực tiếp, cũng như bản tính tự nhiên, đối với Hegel, đếu chỉ là "vật tính", không đạt được đến nhân tính. Con người đúng nghĩa phải vượt trên tự nhiên, biết phủ định xúc cảm trực tiếp, tự đặt mình trên con đường đi đến tinh thần tuyệt đối. Trong biện chứng chủ nô, người chủ ban đầu phủ định bản tính tự nhiên ham sống sợ chết nơi mình để chấp nhận đánh cuộc mạng sống, đổi lấy tự do. Thái độ này thể hiện nhân tính, vì nó phản tự nhiên (con vật không bao giờ làm thế). Trong khi ấy, người nô lệ không chịu nổi rủi ro mất mạng, chấp nhận vâng lời một tâm lý sợ chết tự nhiên, nên mất đi nhân tính (tưởng tượng hai chiếc xe lao vào nhau, ai sợ tránh sang bên thì thua).
Trong "vế biện chứng" tiếp theo, khi người nô lệ từ bỏ sự ham muốn của riêng mình, để ham muốn sự ham muốn của chủ, thì liền thể hiện một đặc tính cốt yếu của con người, là "ham muốn sự ham muốn". Hắn tìm lại được nhân tính qua đó, trong khi người chủ tự đóng mình trong tâm lý ích kỷ, chỉ biết đến sự ham muốn trực tiếp, như con vật, nên thể hiện "vật tính".
Đương nhiên là "chủ - nô" ở đây chỉ là những phạm trù trừu tượng lý thuyết, dùng để lý luận, chứ không phải là những nhân vật hiện hữu trong thực tế. Có thể nói đó là những khunh hướng trong tâm lý của mọi con người.
§§§§§§§§§§§§§§§
Trong "biện chứng chủ nô", người chủ tự thể hiện như một "tâm hồn cao đẹp". Tuy nhiên, xin mời khám phá sự tan biến của tâm hồn cao đẹp ấy như một làn khói không hình thể.
Mời đọc :
Hegel - Hành trình vào chủ quan (phần 4) : "Tâm Hồn Cao Đẹp"
Trong "biện chứng chủ nô" (xem Hegel - Hành trình vào chủ quan (phần 3) : Biện chứng Chủ Nô), chúng ta thấy người chủ tự giam mình trong một tâm lý ích kỷ, với sự tinh khiết của "ý thức bản thân" được nâng lên trình độ trừu tượng hóa cao nhất, đến mức trở thành một ý thức trống rỗng. Dần dần, vì không còn được nuôi dưỡng bởi những hiện hữu chung quanh nó, cái mà Hegel gọi là "tâm hồn cao đẹp" ấy, tan biến như một làn khói không hình thể. Đây là đoạn văn của Hegel về vấn đề này :
"Ý thức cùa người chủ sống trong nỗi lo sự huy hoàng của nội tâm bị hoen ố vì hành động và sự hiện hữu "tại đây" (bị quy định bởi môi trường). Vì thế, để bảo vệ tính tinh khiết của tâm hồn, hắn lẩn tránh thực tại, và bướng bỉnh duy trì sư bất lực của mình, không từ bỏ nổi cái tự thân được tinh rèn đến mức độ cao nhất của trừu tượng hóa. Hắn không thể chấp nhận khoác lên mình một thực chất, biến đổi tư duy thành hiện hữu, và gửi gấm mình nơi sự khác biệt tuyệt đối (*). Sự trống rỗng tự tạo cho bản ngã khiến tâm hồn hắn ngập tràn cảm giác hư vô. (...)
Giữa sự tinh khiết trong sáng của những giây lát ấy, tâm hồn của người chủ trở thành cái mà người ta gọi là tâm hồn cao đẹp bất hạnh. Ánh sáng trong nó dần dần lịm tắt, và nó chậm rãi biến tan không gian vô định như một làn khói không hình dáng."
PHÉNOMÉNOLOGIE DE L'ESPRlT, TOME ll, VI (L'ESPRIT)
(*) Có một "thực chất", hiện hữu "tại đây", giữa các hiện hữu cụ thể quanh mình, tức là rời bỏ cái hiện hữu trừu tượng, thuần nhất, để chấp nhận mình như một hiện hữu bên cạnh các hiện hữu khác, bình đẳng trong sự "khác biệt tuyệt đối" ...
§§§§§§§§§§§§§§
Bây giờ, chúng ta bước vào Lịch sử Triết học. Với một ý tưởng độc đáo :
Triết học là "tinh thần của thời đại", phản ảnh lịch sử của các xã hội, chúng ta cần "hiểu" nó, nhưng không thể ước vọng chuyển hướng lịch sử bằng triết học.
Mời đọc :
Hegel và lịch sử (1) : Lịch sử Triết học
Ý tưởng căn bản là : Triết học xuất phát từ những điều kiện sinh sống cụ thể của các xã hội. Nó là "tinh thần của thời đại". Nói cách khác, triết học phản ảnh lịch sử của các xã hội (đoạn trích 1). Mặt khác, chúng ta cần "hiểu" nó (đoạn trích 2), nhưng không thể ước vọng chuyển hướng lịch sử bằng triết học. Thật vậy, làm sao một hình ảnh có thể thay đổi cái thực thể đã cho ra nó ? (đoạn trích 3).
Tuy nhiên, như thông lệ, Hegel tự mâu thuẫn, khi nói ngược lại luận đề của đoạn trích đầu tiên, để cho rằng chỉ có một triết học duy nhất, "sản phẩm của cùng một tinh thần sống động" (đoạn trích 4) ...
§§§§§§§§§§
Triết học như sản phảm của điều kiện sinh sống cụ thể của các xã hội (đoạn trích 1) :
Trong lòng một dân tộc chính xác, nảy sinh ra một triết lý chính xác, và chỉ nảy sinh triết lý ấy. Triết học (...) gắn bó mật thiết với đời sống chính trị, tương quan xã hội, cũng như các điều kiện tôn giáo, đạo đức, quân sự, khoa học, nghệ thuật. (...) Triết học không chỉ là một trong tất cả các khía cạnh vừa nói của cùng một sự tổ chức. Hơn thế, triết học là biểu hiện cao nhất của toàn bộ tinh thần của tổ chức ấy, là ý thức của sự phát triển toàn diện của nó. Triết học là tinh thần của thời đại, là suy nghĩ của thời đại về chính nó. Lịch sử, định chế, nghệ thuật, tôn giáo, triết học, đều chia sẻ cùng một nguồn cội, đó là tinh thần của thời đại.
Leçons sur l’Histoire de la Philosophie
§§§§§§§§§§
Làm gì với Triết học ? Chỉ để hiểu .... (đoạn trích 2)
Qua luật pháp, luân lý, quốc gia, cái thực tại (của xã hội) cũng trải dài trong thời gian như những phát biểu và tuyên dương của pháp lý, của các giá trị đạo đức, và của tôn giáo phổ cập. Vì tâm trí xét suy không ngừng lại ở sự nắm bắt trực tiếp một thực tại, nên trong trường hợp thực tại xã hội vừa nói, cần phải thêm vào cho nó điều chi ? Xin thưa : cần thêm vào sự thông hiểu, để phủ lên cái nội dung thuần lý của thực tại kia một hình thức phù hợp với lý tính, cho phép nội dung này được công nhận là xác đáng bởi tư duy tự do (...)
PRINCIPES DE LA PHILOSOPHIE DU DROIT
§§§§§§§§§§
Triết học luôn đến quá muộn để thay đổi lịch sử (đoạn trích 3)
Để thêm một lời về những giảng dạy cho rằng thế giới phải như thế này hay thế khác, xin khẳng định : Triết Học, trong mọi trường hợp, đều đến quá muộn để có thể cho ra những giáo huấn tương tự. Triết học, như sự tư duy của thế giới, chỉ xuất hiện sau khi toàn bộ hiện thực đã chấm dứt quá trình triển nở và thành tựu chính nó. Điều mà khái niệm (của triết học) giảng dạy, lịch sử đã chỉ ra y hệt (...) Khi triết học vẽ màu xám chồng lên màu xám, nó không trẻ lại (*), mà chỉ là hiểu biết. Con cú của Minerva chỉ cất cánh khi hoàng hôn buông phủ.
(*) "không trẻ lại" tức không thể lùi được về cái thời gian trước khi lịch sử, tức thực tại, đã vẽ lên bức tranh quy định sự hiểu biết của triết học : nó "chỉ là hiểu biết" giựa trên một thực tại đã có sẵn. Vẽ màu xám trên màu xám chỉ cho thấy nó đã "hiểu" đó là màu xám, chứ không phải là một "sáng tạo".
PRINCIPES DE LA PHILOSOPHIE DU DROIT
§§§§§§§§§§§§§
Tuy nhiên ... Triết học (vẫn) chỉ là một ! (đoạn trích 4)
Lịch sử triết học bày ra những trình độ phát triển của nó, như một sự nối tiếp ngẫu nhiên, cùng với sự phức biến của các nguyên tắc và hệ thống. Tuy nhiên, người thợ làm ra công trình ấy trong suốt nhiều ngàn năm, là một tinh thần sống động duy nhất. Bản chất biết tư duy khiến tinh thần ấy tìm đến ý thức cái mình là, và, khi một trình độ phát triển của tư tưởng trở thành đối tượng suy nghĩ của nó, thì nó đã đạt đến cái trình độ cao hơn.
Qua những hệ thống đa dạng, lịch sử triết học vẽ lên chỉ một Triết Học duy nhất, nhưng ở những trình độ phát triển khác nhau. Và các nguyên lý phức biến được dùng làm nền móng cho những hệ thống khác nhau, chỉ là những cành cây xuất phát từ cùng một tổng thể.
Triết lý cuối cùng được chứng kiến trong thời gian, là kết quả của toàn bộ các triết lý đã hiện hữu trước nó. Vì thế, nếu là một triết lý thực sự, thì nó phải bao hàm các nguyên lý của toàn bộ các triết lý đi trước, để trở thành phát triển nhất, phong phú nhất, và hiện thực nhất.
La Science de la Logique
§§§§§§§§§§§§§
Hegel và lịch sử (2) : Lịch sử các dân tộc
Có thể đơn giản hóa vấn đề bằng cách tập trung vào ba ý tưởng :
Ý tưởng thứ nhất : động cơ của lịch sử các dân tộc là thể hiện sự tự do (vì "tinh thần tự nó tự do" - nhớ là Hegel ước vọng đạt đến "tinh thần tuyệt đối"). Các bạn sẽ thấy Hegel lang bang vào vài sự so sánh, không quan trọng, giữa Đông phương, Hy lạp, và các dân tộc Đức, được ông đề cao một cách nặng nề ... (nhớ là ông ta sống nhờ vào vua chúa Đức !)
Ý tưởng thứ hai : "lịch sử là một phương diện sinh động của thực tại". Cần chú ý đến quan điểm của Hegel cho rằng di sản của lịch sử không phải là một pho tượng được lưu truyền bất biến hệt bởi "một bà nội trợ cần kiệm" (!), mà là một thực thể sống động, linh hoạt.
Ý tưởng thứ ba : Con người không biết mình đang phục vụ cho bước đi của lịch sử.
Sau đây là những đoạn trích tiêu biểu :
Lịch Sử như sự thể hiện Tự Do :
Đông phương biết, và chỉ biết đến sự tự do của một cá nhân, thế giới Hy Lạp và La Mã biết đến sự tự do của một số người, thế giới Đức biết rằng mọi người đều tự do.
LEÇONS SUR L'HlSTOIRE DE LA PHILOSOPHIE
§§§§§§§§§§
Người ta có thể nói lịch sử thế giới (...) là sự thể hiện của tinh thần, qua phương cách mà tinh thần xây dựng sự hiểu biết về chính nó. Người Đông phương không biết rằng bản chất của tinh thần, tức của con người đúng nghĩa, là tự do. Vì họ không biết điều ấy, nên họ không tự do. Họ chỉ biết đến sự tự do của một người. Đó là lý do khiến tự do đối với họ chỉ là độc đoán, man rợ, dục vọng mờ tối (...) Người được hưởng sự tự do như thế, chỉ là một bạo chúa, không phải là người tự do (1).
Chính từ cổ Hy lạp mà ý thức tự do (tập thể) đã trỗi dậy. Vì thế người Hy lạp có tự do. Nhưng, cũng như người La Mã, họ chỉ biết đến sự tự do của một số người, chứ không phải của tự thân mọi con người. Điều này, Platon không biết, Aristote cũng vậy. Vì thế, sự kiện xã hội Hy lạp khai thác người nô lệ (sự sống còn và tự do của Hy Lạp lệ thuộc định chế nô lệ) khiến cho chính sự tự do của họ không thể được coi như tự do thực sự. Nó chỉ là một đóa hoa mong manh, chóng tàn, hiện hữu vì ngẫu nhiên, một cái gì hạn chế, không được trau dồi, tu bổ. Đồng thời, nó là kết quả của một sự lệ thuộc khắt khe áp đặt trên những con người, tức trên nhân tính nói chung.
Chỉ những dân tộc Đức mới đạt đến (...) ý thức rằng bản chất con người là tự do. Sự tự do của tinh thần là yếu tố đặc thù nhất trong nhân tính. Ý thức ấy đã nảy sinh trong tôn giáo, nơi vùng thâm sâu nhất của tâm hồn. Tuy nhiên, một sứ mạng khác liền xuất hiện : đó là đem nguyên tắc ấy vào thực tại thế giới. Sứ mạng này đòi hỏi một tiến trình đào tạo và hành động lâu dài, khó khăn, trên phương diện văn hóa (...)
Sự áp dụng nguyên tắc "bản chất con người là tự do" vào thực tại, làm cho nó thâm nhập, nhào nặn thế giới, chính là dòng chảy miên trường của lịch sử (2).
Hegel, La philosophie de l’histoire
(1) Bạo chúa không tự do. Chỉ có dục vọng không bị kềm chế của hắn là tự do. Ngoài sự lệ thuộc đam mê dục vọng của mình, sự sống còn của hắn còn lệ thuộc hoàn toàn vào việc làm của người khác.
(2) Về sự kết thúc của lịch sử :
Nếu con đường của lịch sử khởi đi từ sự tự do của một người, sang tự do của một số người rồi đến tự do của toàn thể mọi con người, thì người ta có thể hình dung một sự kết thúc của lịch sử. Thật ra, đó chỉ là một kết thúc trên nguyên tắc (chúng ta đang bàn đến nguyên tắc !). Trong thực tế, Hegel, ở phần cuối của đoạn trích này, đã nói rõ là phải đem nguyên tắc ấy thâm nhập vào thực tại, cho nó « nhào nặn » thế giới … Không chắc là công việc ấy có một lúc kết thúc.
Marx, sau Hegel, nhận xét là sự tự do của người giàu không ngang hàng với tự do của người nghèo, đưa vấn đề sang một lãnh vực đòi hỏi một tiến trình cải thiện lâu dài, có thể là vô tận …
§§§§§§§§§§
Lịch sử là một thành tố sinh động của thực tại
Điều chúng ta « hiện là », cũng chính là cái chúng ta « đã là » trong lịch sử của mình. Một cách chính xác hơn, cũng như trong lịch sử tư tưởng (1), quá khứ chỉ là một khía cạnh của hiện tại, và tất cả những gì mãi mãi trường tồn nơi chúng ta, đều liên hệ chặt chẽ với sự hiện hữu của chúng ta trong lịch sử. Cái phần ý thức thuần lý mà chúng ta hiện có, không chỉ sinh ra từ hiện tại, mà là một di sản kế thừa từ công trình của toàn thể các thế hệ đã đi trước chúng ta (…)
Tuy nhiên, truyền thống ấy không như một bà nội trợ cần kiệm, kỹ lưỡng bảo quản cái di sản mà bà ta đã nhận lãnh, để chuyển giao lại một cách y hệt không suy suyển (…) Truyền thống (lịch sử) không phải là một pho tượng bất biến, mà đầy nhựa sống và sinh khí (2), như một dòng sông hùng dũng, mỗi lúc mỗi lớn thêm khi rời xa nguồn cội.
LEÇONS SUR L’HISTOIRE DE LA PHILOSOPHIE
(1) Xem : Hegel và lịch sử (1) : Lịch sử Triết học
(2) Lịch sử sống động không chỉ vì mỗi lúc nó đem lại thêm nhiều dữ kiện, mà vì hình ảnh mà chúng ta có được về nó luôn thay đổi, với những khai triển, phủ định, những tương quan, phân tích, nối kế … không ngừng đổi mới.
§§§§§§§§§§§§§§§§§§§
Con người không biết mình thực hiện bước đi của lịch sử.
Con người xuất hiện như một hiện hữu tự nhiên, với ý chí thuận theo tính tự nhiên của hắn. Đó là phương diện chủ quan, với nhu cầu, ước mong, dục vọng, tư lợi, ý kiến và hình ảnh nội tâm của mổi cá nhân. Khối dục vọng, tư lợi và hành động ích kỷ vô biên ấy, là những công cụ và phương tiện mà Tinh thần của thế giới sử dụng để đạt đến mục đích của nó, nâng mục đích ấy lên tầng ý thức và hiện thực hóa nó. Vì cứu cánh duy nhất của Tinh thần là gặp được mình, đến với mình, tự chiêm ngưỡng mình trong thực tại. Bằng hành vi sinh động, các cá nhân và dân tộc theo đuổi và đạt đến mục tiêu ích kỷ của mình. Tuy nhiên, đồng thời họ cũng chính là công cụ và phương tiện của một sự kiện cao hơn, rộng hơn, mà các cá nhân và dân tộc ấy không biết, để chỉ thực hiện nó một cách vô ý thức.
LA RAISON DANS L’HISTOIRE
§§§§§§§§§§
Bàn đến Quốc gia, Hegel biện minh cho sự cần thiết cùa quốc gia, như công cụ của tự do cá nhân. Cũng xin nhắc lại sự đối nghịch nổi tiếng giữa Marx và Hegel, trong quan niệm quốc gia. Mời đọc :
Hegel : Quốc gia, Luật Pháp và Xã Hội Công Dân
Các cá nhân, ngay cả khi kết hợp trong xã hội công dân, thường bị lệ thuộc những quyền lợi ích kỷ. Điều này khiến họ phải nhờ vào Luật Pháp được đảm bảo bởi Quốc Gia, để biết ý thức quyền lợi chung, như cũng là quyền lợi của chính họ.
Mặt khác, xin nhắc lại là mục đích của lịch sử các dân tộc, theo Hegel, là Tự Do (xem Hegel và lịch sử (2) : Lịch sử các dân tộc). Mà tự do thì lại đối nghịch với lý tưởng bình đẳng. Vì thế, Hegel cho là tự do chỉ có thể triển nở trên một nền tảng đạo đức đến từ quốc gia. Cần nhận xét là Marx đảo ngược quan điểm của Hegel về xã hội công dân ( = tổ chức giữa người dân không lệ thuộc nhà nước) :
Theo Marx, không phải quốc gia, nhờ tính tiêu chuẩn, nền tảng, tượng trưng cho Lý Trí của nó, là nguồn gốc của xã hội công dân, mà ngược lại, xã hội công dân cho ra quốc gia. Và vì xã hội công dân, tức sự tập hợp của những quyền lợi kinh tế và xã hội cho ra quốc gia, nên phải hiểu là quốc gia đến từ những quyền lợi kinh tế xã hội. Quốc gia (và luật pháp) không đại diện cho một Lý Tưởng trừu tượng, mà đại diện cho quyền lợi kinh tế xã hội của thành phần ưu thắng.
Thêm vào đó, Hegel không tiên liệu là hiện tượng toàn cầu hóa đã giảm thiểu rất nhiều vai trò của quốc gia. Pháp luật mà quốc gia thực thi bị hạn chế bởi biên giới của nó. Trong khi đó, thị trường mang tính toàn cầu, không bị biên giới hạn chế, nên áp đặt những quy luật của nó trên quốc gia.
Sau đây là vài đoạn trích tiêu biểu :
Chỉ trong quốc gia mà con người có một hiện hữu tương ứng với lý tính. Mục đích của giáo dục là làm sao cho mỗi người ngừng hiện hữu như những cá thể thuần túy chủ quan, mà biết tự khách quan hóa trong quốc gia (…) Chính bằng cách này mà con người là ý thức, và bằng cách ấy mà nó tham gia vào tập quán, vào pháp luật, vào đời sống đạo đức, vào sự sinh động của guồng máy nhà nước.
LA RAISON DANS L’HlSTOIRE
§§§§§§§§§§§§
Quốc gia là hiện thực của sự Tự do cụ thể. Trước luật pháp tư nhân, trước quyền lợi riêng của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn thể xã hội công dân, quốc gia là thực thể bên ngoài không thể thiếu.
Một mặt quốc gia thể hiện uy quyền vượt trên những thành tố vừa nói, vượt trên khuynh hướng ích kỷ tự nhiên dẫn dắt các quy luật cũng như hành vi vụ lợi.
Mặt khác quốc gia cũng là mục tiêu nội tại, hàm chứa trong cá nhân, gia đình và xã hội công dân. Sức mạnh của quốc gia nằm trong sự thống nhất tối hậu và phổ quát giữa các lợi ích riêng tư. Đồng thời với những quyền hạn, chúng phải gánh vác nghĩa vụ đối với quốc gia.
Principes de la Philosophie du Droit
§§§§§§§§§§
Sự phát triển và trình độ tổ chức cao độ của các quốc gia tân tiến đem đến trong thực tế một sự bất công cụ thể giữa các cá nhân (1). Trong khi đó, luật pháp thuần lý hơn, gắn liền với việc tăng cường tính bình đẳng, lại đưa đến một sự tự do càng thêm to lớn và vững chắc, khi quốc gia càng có khả năng đảm đương và thực thi nó. Sự mâu thuẫn bề ngoài giữa tự do và bình đẳng cho thấy tự do đưa đến bất bình đẳng (…) Tự do càng được củng cố, trong việc bảo vệ quyền tư hữu, trong sự khai thác các khả năng, đặc tính … của mỗi người, thì người ta càng coi nó như một sự đương nhiên. Ý thức tự do và cái giá của nó, chủ yếu hướng đến những khia cạnh chủ quan.
Tuy nhiên, sự chủ quan của một sinh hoạt vô tổ chức, dẫn dắt bởi thú vui, cả trong các hành vi cá nhân lẫn tập thể, sự độc lập của cá tính đặc thù, sự tự do nội tại với những nguyên tác riêng tư, những thiên kiến và lập trường cá biệt, đưa đến một đạo đức tự lập, tất cả những thứ ấy bao hàm hai hệ luận :
- Một mặt, sự phát triển cao độ của bản tính đặc thù của con người, làm hiển lộ tính bất bình đẳng giữa họ với nhau, một sự bất bình đẳng mỗi lúc mỗi gia tăng cùng với tiến trình phát triển này.
- Mặt khác, tự do chỉ có thể triển nở đến mức độ ấy trong những quốc gia tân tiến (2).
Encyclopédie des Sciences Philosophiques
(1) Sự phát triển của các quốc gia tân tiên đưa đến bất công : một phát biểu đáng chú ý !
(2) Quốc gia đem lại một nền tảng « đạo đức xã hội » để điều hướng sự tự do vốn bị lệ thuộc các dục vọng riêng tư. Thiếu nó, tự do đưa đến bất công và « sinh hoạt vô tổ chức », làm cho xã hội tan rã và diệt vong.
§§§§§§§§§§§
Nếu quốc gia trùng hợp với xã hội công dân, và mục đích của nó là đảm bảo quyền tư hữu cùng với tự do cá nhân, thì quyền lợi của mỗi người là cứu cánh tối hậu để họ kết hợp lại với nhau. Nói cách khác, sự kiện « là thành viên của một quốc gia » chỉ là một ý thích các nhân. Thật ra, tương quan giữa quốc gia và cá nhân hoàn toàn khác. Quốc gia là tinh thần khách quan. Vì thế, cá nhân chỉ có được sự khách quan, chỉ nhìn thấy được thực tế (khách quan), và có được một « đạo đức xã hội », nếu nó là một thành viên của quốc gia.
Principes de la Philosophie du Droit
|