Đọc phần 1 / Phần 2 / Phần 3
B) KHẢ NĂNG ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH XÃ HỘI :
1) Xã hội và Tôn Giáo :
Theo một lý thuyết xã hội học danh tiếng (24) thì mô hình tổ chức xã hội là một trong những nển tảng đưa đến sự hình thành của các tôn giáo. Để tồn tại và phát triển từ giai đoạn sơ khai, các xã hội con người phải đặt vấn đề tổ chức, với những quy luật và hệ thống giá trị. Các yếu tố này chỉ vững vàng khi mang ý nghĩa tôn giáo. Ngược lại, người ta cũng nghĩ đến tác động của tôn giáo trên sự chuyển hóa của xã hội. Một thí dụ gần chúng ta là ảnh hưởng của Đạo Tin Lành trong cuộc “cách mạng kỹ nghệ” ở Âu và Mỹ Châu (Max Weber-25). S.C.Kolm có nhận xét là nếp sống Tin Lành thích hợp với loại xí nghiệp được điều khiển bởi một hay vài cá nhân, hơn là với loại xí nghiệp phức tạp ở thời hiện đại, trong đó, việc điều hành tùy thuộc nhiều nhân sự đến từ nhiều ngành, có khi thuộc nhiều quốc tịch . Học giả này cho là Phật Giáo thích hợp hơn với sự điều hành các xí nghiệp loại này, và gắn liền sự kiện ấy với sự phát triển rất nhanh của các xã hội Đông Á chịu ảnh hưởng Phật Giáo, trong khi các nước có truyền thống Tin Lành phải trải qua những giai đoạn trì trệ về kinh tế.
Thật ra, các xã hội Đông Á vừa kể (Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba, Hồng Kông) cùng chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo, của Tây Phương qua mô hình Anh-Mỹ (khác với Việt Nam, cựu thuộc địa Pháp, Phi Luật Tân cựu thuộc địa Tây Ban Nha...), và đều là những nước thuộc loại “duyên hải”. Tức là có nhiều yếu tố giúp các nước này phát triển nhanh. Phật Giáo là một trong những yếu tố đó.
Vì thế, chúng tôi không đặt vấn đề “mô hình Phật Giáo” trong việc quản lý xã hội, mà chỉ đem một số khả năng đóng góp của Phật Giáo ra đối chiếu với một số vấn đề điều hành xã hội hiện đại. Vả lại, quan niệm một “mô hình Phật Giáo” có lẽ tự nó cũng đã không được phù hợp cho lắm với chính sự giảng dạy của Đức Thích Ca!
2) Quản lý các mâu thuẫn xã hội :
Một trong những điều kiện của phát triển là sự hợp tác giữa những thành phần nhân sự trong xã hội. Đó cũng là tăng cường các yếu tố hợp tác, biến những mâu thuẫn đối kháng thành mâu thuẫn hợp tác (26). Phật Giáo có nhiều khả năng để giúp ích trong lãnh vực này. Thuyết nhân-duyên khiến người ta có khuynh hướng tìm hiểu những nguyên nhân của thái độ hay hành động của cá nhân hoặc tập đoàn đối diện, và ảnh hưởng trên những nguyên nhân ấy để đi tìm một giải pháp tốt đẹp nhất cho cả đôi bên. Ảnh hưởng trên nhân-duyên cũng có nghĩa là tạo ra những điều kiện thuận lợi để đưa đến cái mình muốn, chứ không áp đặt. Mọi sự việc đều sinh ra do một tập hợp nhân duyên. Vì thế, muốn có được điều gì, thì tốt hơn hết là tạo ra những nhân duyên thuận lợi cho sự nảy sinh ra điều ấy một cách tự nhiên. Ý thức “vô thường”, và “vô tự tánh” giúp tránh được sự gắn bó mù quáng vào một quan điểm, một lập trường, để uyển chuyển thích nghi với thực tế. Phật Giáo cũng giúp dẹp bớt cái “ngã”, một điều kiện quan trọng để đi đến đồng thuận, vì đồng thuận chẳng qua chỉ là dẹp bớt “cái tôi”, để chấp nhận một phần quan điểm của người khác. Cái “Ngã” được Phật Giáo cho là vô thường và vô tự tánh, nên không những nó có thể thay đổi, mà còn bắt buộc phải thay đổi. Tức là chấp nhận mình thay đổi, người cũng thay đổi, điều kiện để có thể đi đến đồng thuận. Thêm vào đó, theo Đạo Phật, mọi vấn đề, mọi khổ đau, đều do thiếu hiểu biết mà ra (vô minh), nên muốn giải quyết vấn đề, cần làm tăng sự hiểu biết, về phía mình cũng như về phía đối phương. Đó là suy luận nền tảng đưa đến sự thảo luận, để chia sẻ quan điểm và hiểu biết của mình với người khác, cũng như đón nhận những quan điểm và hiểu biết của đối phương. Tinh thần bình đẳng (bình đẳng quan) khiến người ta không nhất định cho là “mình tốt, người xấu”, hay “mình có lý, người lầm lạc”, mà chỉ cho là lập trường của mình, hay của người, đều là kết quả của những nhân duyên khác biệt, và sẵn sàng đón nhận những lý lẽ, những hiểu biết của người khác, như những động cơ để biến đổi cái “ngã” của mình. Sự sẵn sàng san sẻ những hiểu biết của mình cho người, để cùng thăng tiến, cùng là một khía cạnh của tâm Từ Bi. Kết quả là một thái độ mềm dẻo, một khuynh hướng tự nhiên hướng đến thương lượng và đồng thuận, bớt được bạo lực. Người ta có thể ghi nhận là các xã hội phát triển mạnh trong vùng Đông Á là những xã hội hợp tác, mặc dù không thiếu mâu thuẫn.
3) Ý thức trách nhiệm chung :
Thiếu ý thức trách nhiệm chung là một thiếu sót thường được nói đến trong các xã hội hiện đại, và là một trong những hệ quả của tính ích kỹ và cá nhân chủ nghĩa đã nói ở trên. Chúng ta cũng đã nhận xét là sự đồng thuận trong những điều kiện ích kỷ, vụ lợi cho riêng mình hay cho tập đoàn của mình, có thể không tốt cho toàn thể xã hội. Quan niệm “cộng nghiệp” của Phật Giáo là một phương thức giúp người ta nghĩ nhiều hơn đến phúc lợi chung, và nhìn thấy rõ ràng hơn cái định mệnh chung ràng buộc mình với xã hội trong đó mình đang sống.Thêm vào đó, ý chí dẹp bớt “cái tôi” (diệt ngã) rất có ích cho việc hòa mình trong một đời sống chung. Điều đó còn bao hàm ý niệm hy sinh, như lý tưởng “Bồ Tát” xả thân giúp đời. Có lẽ phần nào vì lý do đó, mà người Tây Phương thường bàn tán về tinh thần hy sinh cao độ trong nhiều truyền thống Đông Á chịu ảnh hưởng Phật Giáo, trong cả thời chiến lẫn thời bình.
Trong phạm vi xí nghiệp, tinh thần trách nhiệm chung cũng được coi là rất cao tại các nước phát triển mạnh trong vùng Đông Á. Tại Nhật, điều này thường được gắn liền với tinh thần Võ Sĩ Đạo, rất bị ảnh hưởng bởi Thiền Tông. Sự kiện những nhân công Nhật sẵn sàng tăng giờ làm việc, chịu giảm lương, và hình ảnh những người này, sau những cuộc biểu tình trong công xưởng, tận tụy quét dọn từng mẩu giấy vụn, từng tàn thuốc, đã làm kinh ngạc những nhà quan sát Tây Phương quá quen thuộc với những phương thức cổ điển của “đấu tranh giai cấp”.
4) Vấn đề giáo dục :
Giáo dục là một trong những chức năng của mọi tôn giáo. Đạo Phật coi mọi đau khổ đều đến từ Vô Minh, tức là thiếu hiểu biết, nên đương nhiên là quý trọng sự học hỏi, ngay từ trong bản chất của mình. Phật Giáo cũng quan niệm hiểu biết như một con đường vô tận, không có điểm đến. Vì thế, theo tinh thần này, người ta sẽ không ngừng lại ở một mảnh bằng, hay khi đã đạt được một địa vị xã hội, mà vẫn cứ phải học hỏi mãi, để đẩy lùi mãi mãi sự “vô minh” của mình, và luôn đi tới trên con đường hiểu biết. Đó cũng là ảnh hưởng của Bình Đẳng Quan : ai cũng như ai, ai cũng đều phải học, dù ở bất cứ địa vị nào. Cùng với Vô Phân Biệt Trí, Bình Đẳng Quan cũng giúp chấp nhận học hỏi với mọi người, coi ai cũng đều có thể là thày của mình, kẻ trí như người ngu, hiền giả như hung đồ, và chấp nhận học hỏi nơi mọi sự kiện, thành cũng như bại, tốt cũng như xấu, lành cũng như ác.
Một sự giảng dạy khác của Đạo Phật là óc thực nghiệm : dừng tin tưởng một cách mù quáng, mà hãy tự mình chứng nghiệm. Con đường tu tập của người Phật Tử là con đường tự chứng nghiệm. Điều này giúp quý trọng sự thực hành, hợp nhất lý thuyết với thực hành.
Thêm vào đó, quan điểm “nhân duyên” thuận lợi cho sự phát triển óc phân tích, tìm hiểu cặn kẽ nhân duyên của từng sự kiện. Trong khi đó, thiền quán, như đã nói, có khả năng giúp phát triển trực giác, thuận lợi cho việc thông hiểu vấn đề trong toàn bộ.
Ngoài ra với gương sáng của Đức Thích Ca, khi Ngài từ bỏ lối tu ép sác, chọn con đường “Trung Đạo”, của Bồ Đề Đạt Ma, được coi như Tổ Sư của Võ Học, và với thí dụ của các Thiền Sư Võ Sĩ (ở VN, Trung Hoa, Nhật...), người ta nhận thấy con đường đào tạo con người của Phật Giáo không những rất chú trọng đến việc luyện tập thân thể, mà còn coi điều đó như không thể tách rời khỏi sự trau dồi trí tuệ. Thiền học thường dạy phải điều thân (tư thế cho đúng, thí dụ ngồi cho ngay thẳng), rồi điều khí (thở cho điều hòa), thì mới tĩnh thần (làm cho tâm thần yên tĩnh) được. Luyện tập thân thể, luyện tập hơi thở, và luyện tập tâm thần không thể tách rời, mà buộc phải thống nhất trong cùng một phương pháp.
Như vậy, người ta có thể tìm thấy trong chính bản chất của Đạo Phật : sự thúc đẩy không ngừng trau dồi hiểu biết, sự khuyến khích thực hành các hiểu biết ấy (thực nghiệm), sự phát triển óc phân tích, cũng như óc tổng hợp, cùng với sự luyện tập thân thể, tức những yếu tố quan trọng nhất của việc giáo dục trong thời đại hiện nay, cả trên phương diện trí dục, đức dục, lẫn thể dục. Theo sự hiểu biết của riêng tôi, không có tôn giáo nào mang trong bản chất của mình đầy đủ các yếu tố ấy, như Phật Giáo.
Người Tây Phương thường ngạc nhiên trước sự thành công về học vấn của các sắc dân Đông Á định cư trên đất nước họ. Họ cũng từng ghi nhận khả năng bắt chước của các nền kỹ nghệ Nhật, Đại Hàn, Đài Loan v.v...lúc còn non yếu, rồi hốt hoảng khi bị qua mặt trong chính những lãnh vực mà chỉ mới cách đây vài năm các quốc gia vửa phát triển kia chỉ biết chạy theo họ. Như đã nói, sự trau dồi hiểu biết, theo Phật Giáo, không có điểm ngừng, và chỉ tùy thuộc nơi sự cố gắng của mỗi người (tự lực), nên việc “qua mặt thày” là điều rất có thể sảy ra. Cũng phải nhận xét là óc thực nghiệm cao độ cũng đã giúp cho các nền kỹ nghệ Đông Á ấy ứng dụng một cách tài tình những kiến thức mà họ học hỏi được nơi Tây Phương.
5) Vấn đề tăng cường hiệu năng của sản xuất :
Giáo dục tốt, thì nhân sự sản xuất tốt, và sản xuất tự nó có nhiều hy vọng gia tăng được hiệu năng. Ngoài ra, ý tưởng cho là phải luôn luôn trau dồi kiến thức, rằng con đường của hiểu biết là con đường vô tận, có tác dụng khuyến khích nhân công lẫn xí nghiệp luôn duy trì nỗ lực đào tạo liên tục, ở mọi cấp, mọi ngành. Nhân công của xí nghiệp Nhật chẳng hạn, thường xuyên tham gia các khóa đào tạo bổ túc, các buổi hội họp trong ngành làm việc của mình hay với các ngành khác, để trau dồi kiến thức, không những chỉ trong công việc mà mình đang làm, mà cả về những gì các bạn khác trong xí nghiệp đang hay sắp thực hiện. Điều này giúp cho nhân công có một cái nhìn tổng quát về sản phẩm và công việc trong toàn xí nghiệp, có lợi cho sự hội nhập vào đời sống của xí nghiệp, cho sự hăng hái làm việc, và cho sự hiểu biết tường tận về vai trò của mỗi động tác, mỗi công việc, mỗi cá nhân, trong toàn bộ xí nghiệp, làm tăng hiệu năng của sản xuất.
Nỗ lực đào tạo liên tục, và liên hệ bình đẳng giữa các cấp, các ngành giúp các xí nghiệp loại này dễ thành công trong việc lưu chuyển kiến thức giữa mọi bộ phận của xí nghiệp (và cả giữa các xí nghiệp liên kết với nhau), một khó khăn mà các xí nghiệp Tây Phương vẫn còn vấp phải, cũng như việc phân tán khả năng sáng tạo đến toàn bộ xí nghiệp, từ tầng cấp thấp nhất trở lên (27). Con số sáng kiến đến từ các nhân công ở hạ tầng trong các xí nghiệp Nhật nhiều gấp ba lần hơn trong các xí nghiệp Tây Phương. Điều này giúp xí nghiệp trở nên sống động, mọi nhân công đều có điều kiện tham gia vào cuộc sống chung của xí nghiệp, và đều được trang bị để sẵn sàng thích nghi với hoàn cảnh thực tế. Đó có thể phần nào là kết quả của tư tưởng phá chấp và bình đẳng quan (sáng kiến có thể đến từ mọi nhân công, kể cả anh thợ quèn không bằng cấp), của lý tưởng diệt ngã (hòa mình trong đời sống chung), của óc tinh tấn, trau dồi kiến thức không ngừng nghỉ, và tinh thần thực dụng trong Đạo Phật (luôn đi sát với điều kiện thực tế được cảm nhận từ mọi tầng cấp, chứ không phải chỉ từ một nhóm lãnh đạo).
Một sắc thái khác trong sự giảng dạy của Phật Giáo có thể đóng góp cho việc gia tăng hiệu năng của sản xuất là sự không phân biệt lý thuyết với thực hành. Trong lãnh vực Đạo Học, dù cho anh có là người hiểu biết nhiều về lý thuyết, dù cho anh có khả năng viết, nói, tràng giang đại hải về các giáo lý cao diệu, thì anh cũng vẫn chỉ là “phó phàm phu”, nếu anh chưa thực sự chứng nghiệm các lý thuyết ấy trong thâm tâm anh và thực hành chúng trong cuộc sống, nói cách khác, nếu anh chưa thực sự làm một với chúng. Thí dụ cái “chân không diệu hữu” chỉ hiện hữu thực sự khi anh đã chứng được nó, và sống thực nó. Trước đó nó không hiện hữu, nó là giả, là tào lao, là một “vọng niệm” trong cái tâm khỉ vượn của anh, chỉ dùng để tán dóc cho vui mà thôi. Theo tinh thần đó, khi một người mới ra trường được tuyển dụng vào một xí nghiệp Nhật Bản, mặc dù có bằng cấp đại học, anh ta vẫn chỉ được coi như một người thợ thường. Mớ lý thuyết mà anh ta thu thập được trong đại học vẫn chưa là gì cả, cho đến khi anh ta chứng nghiệm được chúng trong những lãnh vực từ thấp tới cao trong xí nghiệp. Khi đó, anh ta mới được sử dụng theo bằng cấp, tức theo kiến thức về lý thuyết mà anh ta có. Sự hợp nhất lý thuyết và thực hành rất hữu ích trong sản xuất. Nó giúp người ta bớt đặt ra những vấn đề lý thuyết không có thực, để những vấn đề lý thuyết sẽ chỉ nảy sinh ra từ thực tế chứ không phải từ những suy luận trừu tượng. Nó giúp cho lý thuyết được áp dụng một cách phù hợp với thực tế, và giúp cho hành động trong thực tế luôn đi liền với lý thuyết. Thật vậy, khi anh lý luận để làm thì anh dễ làm được cái mà anh lý luận hơn là khi lý luận để mà lý luận. Lý luận để lý luận phí thời giờ và năng lượng, trong khi lý luận để làm tiết kiệm thời giờ và năng lượng, gia tăng hiệu năng của sản xuất. Một ứng dụng cụ thể của quan điểm này là sự kết hợp trường học với xí nghiệp, một điều mà nhiều quốc gia tiền tiến, như Pháp, cố thực hiện từ vài năm nay.
Thật ra, đóng góp quan trọng nhất của Đạo Phật cho việc gia tăng hiệu năng của sản xuất, theo ý tôi, là thái độ tìm cứu cánh của công việc làm trong chính công việc làm, tìm niềm vui trong sự tốt đẹp của mỗi công việc đang được thực hiện. Thái độ này có tác dụng gia tăng giá trị tự thân của việc làm, bớt đặt vấn đề hưởng thụ thành quả của việc làm như điều kiện để cố gắng làm cho thật tốt. Cùng với quan điểm cho rằng tiến bộ là một con đường vô tận, thái độ ấy đưa đến tâm lý hướng đến sự hoàn hảo thường được ghi nhận trong các xí nghiệp Nhật : từ các mục tiêu sản xuất “100 phần trăm không sai sót”, cho đến “100 phần trăm đúng kỳ hạn”.
6) Quân bình tiêu thụ và sản xuất :
Như đã nói ở phần đầu, con người sản xuất trong xã hội hiện đại bị coi rẻ đối với con người tiêu thụ. Chúng ta cũng vừa thấy Đạo Phật giúp làm tăng giá trị của công việc làm, tức của sản xuất, coi đó như một cứu cánh, một niềm vui. Mặt khác, Đạo Phật cũng dạy bớt ham muốn (diệt dục), với hệ quả là kềm hãm tiêu thụ. Tăng giá trị tự thân của sản xuất, giảm giá trị của việc tiêu thụ, hệ thống giá trị của Phật Giáo rất hữu ích cho sự quân bình giữa sản xuất và tiêu thụ vậy. Sự quân bình này giúp tránh những lệch lạc bất công của một xã hội chỉ biết đánh giá con người qua khả năng tiêu thụ. Mặt khác, như đã được trình bày, quân bình sản xuất và tiêu thụ cũng là một yếu tố quan trọng để gia tăng tiết kiệm, một lợi điểm cho việc phát triển kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà hai nước có trữ lượng tiền tệ cao nhất thế giới lại chính là Nhật Bản và Đài Loan. Người dân các nước phát triển nhanh trong vùng Đông Á đều đã biết kềm hãm tiêu thụ, trong khi vẫn gia tăng sản xuất, với trọng tâm đặt nơi việc xuất cảng.
7) Tinh thần xí nghiệp :
Khi nghiên cứu sự thành công về kinh tế của Nhật Bản, người ta thường ghi nhận sự khác biệt giữa tinh thần xí nghiệp ở Nhật so với các nước Tây Phương. Trong phạm vi xí nghiệp, chúng ta đã đối chiếu những quan điểm Phật Giáo với ý thức trách nhiệm chung, với sự liên tục đào tạo nhân công, với sự lưu chuyển kiến thức giữa các ngành chuyên môn, với sự hiểu biết tổng hợp của nhân công về sản phẩm của xí nghiệp, với sự phân tán các nguồn sáng kiến tới toàn thể xí nghiệp, đặc biệt là tới các tầng cấp thấp, với cách lấy quyết định và giải quyết mâu thuẫn từ sự thảo luận, trao đổi hiểu biết, tìm hiểu người khác, đưa đến đồng thuận, chứ không áp đặt, v.v...Tất cả các yếu tố này đều cần được bao bọc bởi một không khí đặc biệt, tức một tinh thần xí nghiệp đặc biệt. Theo cách suy nghĩ ảnh hưởng bởi Phật Giáo, thì nhân công được tuyển vào các xí nghiệp loại này có thể được ví như người quy y. “Quy” là theo về, “y” là nương dựa vào. Nhân công từ lúc được tuyển có thể nương dựa vào xí nghiệp trong toàn bộ cuộc sống của mình. Tại Nhật, từ việc ăn, ở, giải trí, nghỉ hè, cho tới cưới xin, hưu trí, v.v...của đa số nhân công, đều được xí nghiệp đảm bảo tận trong chi tiết, thậm chí tới lúc chết đi, nấm mồ cũng đã được xí nghiệp sắp sẵn (30) ! Đời sống của nhân công là đời sống của xí nghiệp. Cũng có thể nói : xí nghiệp theo mô thức này không chỉ sản xuất hàng hóa, mà còn sản xuất đời sống của các nhân công. Đó cũng là ràng buộc đến mức hòa chung trong một hợp thể các yếu tố : phương tiện sản xuất (máy móc), con người sản xuất, và hàng hóa được sản xuất. Đây có thể là một biểu hiện của tinh thần “vô phân biệt” trong Phật Giáo. Tinh thần xí nghiệp như vậy khiến cho nhân công làm việc cho xí nghiệp hoàn toàn như làm việc cho mình (vô phân biệt), gắn liền định mệnh của mình với định mệnh của xí nghiệp. Khỏi nói là họ hăng hái làm việc hơn, sẵn sàng phát huy sáng kiến hơn, sẵn sàng hy sinh khi cần thiết, và không bao giờ phá hoại xí nghiệp của họ, dù cho có những lúc phải tranh chấp, đòi hỏi.
8) Nạn thất nghiệp :
Tại nhiều quốc gia Tây Phương nạn thất nghiệp bị coi như một loại “định chế”, không thể loại trừ được, trong khi đó, tại các quốc gia phát triển nhanh trong vùng Đông Á, như ở Nhật, số người thất nghiệp rất ít. Các học giả Tây Phương thường cho là xã hội Nhật “dấu” những người thất nghiệp trong các xí nghiệp. Điều này có thể bị coi như một chỉ trích, vì nó trái với kinh điển của kinh tế tự do, nhưng cũng làm bộc lộ một quan niếm khác về tương quan giữa con người và kinh tế, giữa con người và xí nghiệp. Nếu tìm trong Phật Giáo, ta có thể thấy một số yếu tố liên quan đến khả năng làm thuyên giảm phần nào căn bệnh thất nghiệp của một số xã hội :
-đầu tiên là thái độ coi việc làm có một giá trị tự thân, là một nguồn hạnh phúc, khiến người thất nghiệp không có khuynh hướng ngồi không hưởng trợ cấp. Họ dễ dàng tự ý tham gia các khóa học mở mang kiến thức, các chương trình ích lợi công cộng, hay hợp tác thực hiện các dự án tao ra công ăn việc làm cho chính họ và cho người khác, dưới sự hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn. Như thế, người thất nghiệp không bị loại khỏi xã hội, mà vẫn tiếp tục tự đào tạo, vẫn làm được những việc có ích cho họ và cho xã hội.
-Thứ đến, là tinh thần xí nghiệp vừa được trình bày, khiến cho xí nghiệp không dễ dàng đào thải nhân công thặng dư, mỗi khi hàng hóa sản xuất ra bán không được chạy. Chúng ta đã nói : trong quan điểm xí nghiệp này, đời sống của nhân công cũng là lẽ sống của xí nghiệp, như hàng hóa mà nó làm ra. Vì thế xí nghiệp sẽ có khuynh hướng “dấu” nhân lực thặng dư trong các sinh hoạt của mình, bằng cách tạo ra những công việc làm không trực tiếp sản xuất như nghiên cứu, đào tạo, dịch vụ giải trí, văn hóa, nghệ thuật, tu chỉnh môi trường v.v...trong khi chờ đợi thị trường bước sang một giai đoạn thuận lợi hơn. Thái độ này không những giúp cải tiến đời sống của xí nghiệp (làm đẹp môi trường, giảm ô nhiễm, thêm phương tiện giải trí, thể thao, trau dổi văn hóa, nghệ thuật...) mà còn sửa soạn cho việc trở lại một giai đoạn sản xuất mạnh với những ưu điểm, những sáng kiến, đến từ các công trình nghiên cứu và đào tạo mà xí nghiệp đã lợi dụng thời gian bị bắt buộc phải giảm bớt sản xuất để tích cực thực hiện.
-Diều thư ba là tinh thần hy sinh lấy từ quan điểm “cộng nghiệp”, cũng như tâm từ bi, biết thương người, và chia sẻ với người. Trở lại trường hợp xí nghiệp muốn “dấu” nhân lực thặng dư trong các sinh hoạt của mình, người ta có thể nghĩ rằng muốn làm được như vậy, có thể xí nghiệp liên hệ sẽ phải bớt lương của nhân công, để không bị thua lỗ thái quá, đưa đến sụp đổ. Điều này có thể quan niệm được trong một xí nghiệp Đông Á, với ý thức “cộng nghiệp” nói trên. Trong phạm vi của một xã hội, người dân cũng dễ chấp nhận san sẻ sức tiêu thụ của mình với những người kém may mắn hơn, khi hệ thống giá trị của xã hội ấy vốn vẫn khuyên hạn chế tiêu thụ, và đề cao lòng từ bi, giúp người.
9) Vấn đề môi sinh và tài nguyên thiên nhiên :
Ai cũng biết đây là một vấn đề sanh tử của loài người. Nó đi kèm với vấn đề phát triển. Quốc gia nào cũng muốn phát triển, nhưng càng phát triển thì lại càng tăng cường ô nhiễm môi sinh và làm tiêu hao tài nguyên thiên nhiên. Người ta ước lượng nếu toàn nhân loại đạt đến trình độ tiêu thụ của Hoa Kỳ thì tài nguyên trên trái đất sẽ khánh kiệt chỉ trong vòng mười năm ngắn ngủi. Muốn giải quyết các vấn đề này, cần có những giải pháp dài hạn, với những lợi ích nhiều khi rất xa xôi, mơ hồ, khó hình dung được bởi người dân, nhưng lại đòi hỏi nơi người dân những hy sinh, những hạn chế tức thời, và lâu dài. Tính duy lợi thiển cận của các xã hội thời đại là một ngăn trở cho các chính sách kiểu này. Thêm vào đó, triết lý Tây Phương đã tập cho con người quen với ý tưởng mình có thể ngự trị trên thiên nhiên vạn vật, bắt thiên nhiên phải phục tùng những đòi hỏi của mình. Chúng ta cũng đã nhận xét ở trên, rằng con người thời đại có khuynh hướng sống cách biệt với thiên nhiên, trong những đô thị lớn, nên thiên nhiên đối với họ trở thành xa lạ. Sự vượt thoát khỏi quan điểm duy lợi, ý thức bình dẳng không phải chỉ giữa con người với nhau, mà cả giữa con người và vạn vật, ý thức nhân-duyên ràng buộc định mệnh con người với tất cả thiên nhiên vạn vật, tâm từ bi, sẵn sàng hy sinh, tiết chế dục vọng (hạn chế tiêu thụ) cho sự sống của chúng sinh, tinh thần “vô phân biệt” giữa sự sống của mình và sự sống của vạn vật, thói quen hòa mình trong đời sống của cảnh vật, thiên nhiên, khiến những con người chịu ảnh hưởng Phật Giáo dễ dàng đón nhận những chính sách bảo vệ môi sinh hơn những người khác.
Người ta ước lượng mỗi ngày có tù 100 tới 300 giống sinh vật biến mất trên đời sống của địa cầu, do sức tàn phá của con người. Nếu đời sống của chúng ta cũng là đời sống chung của mọi sinh vật, theo “vô phân biệt trí” của nhà Phật, thì chúng ta đang phá hủy sự sống của chính chúng ta. Đóng góp của Phật Giáo trong vấn đề khó khăn này là gieo rắc ý thức về sự đồng nhất giữa đời sống của chính mình và của vạn vật, trong tâm hồn con nguời thời đại. Các phương pháp quán tưởng của Phật Giáo, có thể áp dụng trong đại chúng, cũng có thể là những phương tiện quý báu để cho ý thức ấy lớn mạnh, và để cho con người sống thực với nó, trong cả tâm hồn lẫn thể sác mình.
10) Vấn đề chênh lệch giàu nghèo :
Với bốn mươi ngàn người chết đói mỗi ngày, khó có thể nói được là thế giới ngày nay “rất tiến bộ”. Nhất là khi thực phẩm dư thừa ở những nước giàu có bị phá hủy, khi chính phủ các nước này trợ cấp cho nông dân của họ để khuyến khích bớt sản xuất thực phẩm, bỏ đất hoang, hay khi phung phí trở thành chính sách (tại Pháp một phần ba số bánh mì làm ra bị vứt bỏ). Ở một số nơi người ta chết vì ăn quá nhiều, trong khi ở những nơi khác, người ta chết vì đói. Ở mỗi chỗ, những ưu tư của con người hoàn toàn cách biệt nhau. Thí dụ trong lúc ở Rwanda có 70 người chết mỗi phút, thì ưu tư hàng đầu của các chính phù trong cuộc họp G7 là sự sụt giá của đồng Dô La. Và người dân tại nhiều nước, cũng trong lúc đó, đang bận hồi hộp lo lắng cho đội banh này, đội banh khác, trong giải túc cầu quốc tế 1994, hay cho thời tiết của các ngày nghỉ hè sắp tới...Các ưu tư kể trên đều chính đáng, nhưng người ta có cảm tưởng loài người như bị xé nhỏ ra với từng nhóm người sống trong từng quả cầu nhỏ, lo cho từng cái “thế giới” riêng của mình (đó cũng chính là trở lại thời xa xưa, trước khi “tiến bộ"). Sự giảng dạy của Phật Giáo có khả năng hàn gắn khuynh hướng “xé nhỏ” này, để mỗi con người thực sự cảm thấy liên hệ đến đời sống chung của toàn nhân loại (và thực sự tiến bộ). Hạnh nguyện của bậc Bồ Tát :“ngày nào chúng sinh còn dau khổ, thì ta nhất quyết khộng nhập Niết Bàn”, có thể được thích nghi hóa cho đại chúng thời nay như sau :
“Ngày nào còn có người đói khổ, thì ta quyết không ăn sài quá lố, quyết hạn chế tiêu thụ, dể chia sẻ với anh em đồng loại đang lâm cảnh bần cùng thiếu thốn”.
Đảng phái nào sẽ dám ra ứng cử với một chính sách giảm bớt mức sống, hay kềm hãm sự gia tăng tiêu thụ của người dân ? Chính phủ nào dám có chính sách nói với dân :“từ nay anh ăn bớt đi, để chia sẻ với người đói khổ” ? Vì thế, đây chỉ có thể là chức năng của các tôn giáo. Và tiếng nói của Phật Giáo, với những phương pháp cụ thể để giúp con người sống thực giáo lý của mình, sẽ là một đóng góp quý giá.
CHÚ THÍCH :
(24) Emile Durkheim :“Formes élémentaires de la vie religieuse” - Ed PUF - Paris - 1979.
(25) Max Weber :“LEthique Protestante et lesprit du capitalisme”, theo
S.C.Kolm (sách đã dẫn).
(26) Xem “Xây dựng một nước VN phát triển” - Nguyễn Hoài Vân - Tóm lược bài nói chuyện tại Đại Hội Y Sĩ VN Thế Giới, 1993, Orlando, Hoa Kỳ-Tập San Y Sĩ,Canada,Tháng 1/1994-Cánh Én, Đức, số 32 - Thời Luận, Los Angeles, Xuân Giáp Tuất.
(27) Trong cuộc Hội Thảo đã dẫn ở chú thích 15.
(30).Revue Geo - số 49 - tháng 3/1983
Xem tiếp phần 5