Đọc Phần 1 / Phần 2 / Phần 3 / Phần 4
C) TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM :
1) Bối cảnh chung :
Việt Nam là một nước tư bản “đỏ”, tức loại tư bản “rừng rú” nhất, bất công nhất, bóc lột nhiều nhất. Giai cấp đặc quyền của chế dộ trở thành những cai thợ hối hả vơ vét, và sẵn sàng tự bán mình cho bất cứ chủ nhân giàu có nào. Họ sống trong một xã hội thay đổi quá nhanh, theo những quy luật mà họ không nắm vững, gây nên một tâm lý hoang mang. Và càng hoang mang thì họ càng có phản ứng vơ vét. Càng không nắm nổi những quy luật vận động của xã hội, thì họ càng bám lấy những quy luật sơ khai, tức “luật rừng rú”. Càng không biết làm thế nào để quản lý đất nước thì họ càng phải tìm kiếm những chủ nhân thay thế họ trong việc này, để tự bằng lòng với vai trò cai thợ, miễn là có thể tiếp tục vơ vét.
Người dân cũng phải tự thích nghi với một xã hội như vậy. Trong sự thay đổi nhanh chóng, họ có cảm tưởng bất ổn, nên mỗi khi có chút cơ hội kiếm tiền, thì liền vội vàng chụp dựt. Trong bối cảnh tranh đua chụp dựt ấy, người ta ít con thì giờ nghĩ đến quyền lợi chung. Vì thế, hiện tượng xã hội bị xé nhỏ, tính duy lợi và thiển cận, ở một nước tư bản đỏ như VN, lên dến cùng cực.
Hối hả chụp dựt, nhưng, trong bối cảnh “rừng rú”, bóc lột, vơ vét, người dân vẫn nghèo (32). Làm giàu chỉ là một giấc mơ. Bức màn mua qua bán lại rầm rộ ỏ thành thị, khi được vén lên sẽ cho thấy sự khốn khổ của đại đa số nhân dân. Người miền quê sẽ phải trả cái giá rất đắt của phát triển, mà không được hưởng thành quả. Và thị thành sẽ tràn ngập những người đi tìm thiên đường tư bản, nhưng chỉ gặp địa ngục hè phố. Công xưởng sẽ quy tụ những người bán rẻ sức lao động, được quản chế một cách khắt khe bởi những cai thợ tư bản đỏ...
Với tư bản đỏ, VN không giàu lên, mặc dù những chỉ số kinh tế có vẻ cho thấy một sự “hồ hỡi”. Vì sao ? Vì muốn thực sự giàu lên, VN phải gia tăng sản xuất nhiều hơn nữa so với sự gia tăng tiêu thụ. Tự mình không sản xuất, thì đồng tiền đưa vào VN, sẽ được dùng để mua sản phẩm do ai sản xuất ? Tức là tiền bạc đổ vào VN (trong đó có khoảng 1 tỷ MK 1 năm đến từ Cộng Đồng Hải Ngoại), sẽ lại chui vào túi người ngoại quốc, vì một phần quan trọng của số tiền ấy được dùng để tiêu thụ hàng nhập cảng, với một phần không nhỏ là nhập cảng lậu (không đem lại lợi tức thuế khóa cho ngân sách).
Với tư bản đỏ, VN cũng không xây dựng tương lai, vì bản chất thiển cận và duy lợi cùng cực của loại tư bản này. Thí dụ giáo duc không đem lại nhiều lợi nhuận, thì trường học biến thành khách sạn ! Thí dụ rừng cây không đem lại lợi nhuận bằng sân golf, thì phá rừng làm sân golf ! Thí dụ một hòn đảo chưa biết làm sao khai thác, thì, thay vì học hỏi, tìm phương cách tốt nhất trong dài hạn cho đất nước, lại sợ mất thời giờ (thời giờ là tiền bạc !), mà vội vàng cho ngoại quốc thuê bao dài hạn, để hưởng lợi nhuận tức thời, và muôn ngàn thí dụ khác.
Tựu trung, trong tình trạng tư bản đỏ, các vấn đề của xã hội đều không được giải quyết, chỉ vá víu tạm thời. Khủng hoảng sẽ không thể tránh được, và sau đó, sẽ phải đặt vấn đề xây dựng một cách tích cực hơn.
Đâu sẽ là vai trò của Phật Giáo ?
2) Tổ chức quần chúng :
Chúng tôi đã trình bày trong một bài viết khác (28) rằng tại VN hiện nay, ngoại trừ Đảng CS và các tổ chức ngoại vi, không có hình thức tổ chức quần chúng nào khác ngoài tôn giáo. Phật Giáo đương nhiên là có tiềm năng rất lớn trong lãnh vực này. Trong khủng hoảng, quần chúng Phật Giáo đã từng chứng tỏ khả năng đấu tranh của mình. Trong xây dựng, hệ thống chùa chiền đi sâu vào từng thôn xóm, sẽ là sự kết tinh của lương tâm và ý chí của người dân. Việc kêu gọi người dân chấp nhận một số hy sinh cần thiết cho những chính sách phục hưng kinh tế và cải tạo xã hội sẽ dễ thành công hơn nếu có các Tăng, Ni, ở gần người dân, chia sẻ đời sống của dân, tích cực giải thích, biện minh cho những hy sinh ấy, đồng thời xoa dịu những khổ đau mà các chính sách kia có thể đem lại cho một số người. Hệ thống chùa chiền ở VN cũng có khả năng đưa ngược trở lên bề mặt của xã hội những bất công mà người dân phải chịu, cũng như những nguyện vọng, nhận định và phê phán của họ, được phát biểu qua ánh sáng của Đạo Phật.
Chúng ta cũng không thể không nhìn thấy những giới hạn quan trọng trong lãnh vực “tổ chức quần chúng” của Phật Giáo VN. Đó là :
-Thiếu cơ cấu chỉ đạo thống nhất -Chênh lệch trong sự hiện diện tại hai miền Nam Bắc (trên và dưới vĩ tuyến 17) -Không có “óc chính trị”, nặng ấn tượng “không nên làm chính trị”. -Liên hệ quốc tế chưa dồi dào.
Những giới hạn ấy có thể được đẩy lùi, khi có được một số điều kiện thuận lợi :
a) Sự thảo luận và trao đổi liên tục giữa những Nhà Tu am tường Phật Pháp sẽ dễ dàng đi đến đồng thuận hơn đối với bất cứ ai. Sự đồng thuận ấy có thể đưa đến một hình thức chỉ đạo hiệu quả và không phản lại bản chất tự do của Phật Giáo. Theo thiển ý, có lẽ hình thức sinh hoạt “đa số thắng thiểu số” không phù hợp với sinh hoạt của Tăng Đoàn. Thật vậy, Đạo Phật chủ trương phải thực sự chứng nghiệm, chứ không tin theo một cách mù quáng, vì thế không thể bắt “thiểu số phục tùng đa số”, tin theo sự sáng suốt của đa số, trong khi tự trong thâm tâm, các Vị thuộc thiểu số vẫn chưa “chứng” được cái lý lẽ mà đa số đưa ra. Để phù hợp hơn với tinh thần “tự tu, tự chứng” của Phật Giáo có lẽ các vấn đề quan trọng cần được quyết định với sự thỏa thuận của toàn thể các Tăng Ni hiện diện (trong một cơ chế nào đó). Nếu sự thỏa thuận ấy không đạt được, thì cần mở rộng dần dần cuộc đối thoại ra tới các Tăng Ni khác (thí dụ mở rộng tới một cấp đại diện thấp hơn), cho tới khi mọi người cùng đồng ý. Thật vậy, bất đồng ý kiến, trong trường hợp những vị Tăng Ni đức độ (đã được Tăng Đoàn tuyển chọn), chỉ có thể đến từ sự khác biệt hiểu biết : Vị này hiểu vấn đề thế này, Vị khác hiểu thế khác, biết dưới khía cạnh khác, nên giải pháp đề ra khác nhau. Chỉ cần thảo luận, đem những hiểu biết kia đặt chung lại với nhau, mỗi Vị cố gắng học hỏi, tìm hiểu quan điểm của các Vị khác (một hình thức “tự tu"), và điều chỉnh cái “biết” của mình, thì rốt cuộc, tất cả sẽ cùng “biết” như nhau (tự chứng), và khi đó sẽ bắt buộc phải cùng đi đến một quyết định như nhau. Nếu chưa thỏa thuận được, thì sự kiện nhiều Tăng Ni khác gia nhập cuộc thảo luận, sẽ đem lại thêm những hiểu biết mới, những quan điểm mới, ráp vào với những gì đã có, vả điều chỉnh tất cả, cho đến khi mọi người cùng đồng ý với nhau, từ một sự hiểu biết chung. Đương nhiên là phương cách này chỉ nên áp dụng cho những người đã diệt bớt tự ái, ích kỷ, tham lam, nóng nảy...chứ không thể phù hợp với những tên vulgum pecus như kẻ hèn này ! (vẫn phải cần đến phương cách đa số, thiểu số) Sức mạnh của một hình thức lãnh đạo như vừa nói, rất lớn. Vấn đề là sắp đạt các cơ cấu liên hệ. Thí dụ, cần những cơ cấu chuyên viên, để đem lại cho các vị lãnh đạo Tăng Đoàn những quan điểm chuyên môn, những cơ cấu bao gồm cư sĩ, những cơ cấu đại diện cho các ngành hoạt động (cứu tế, giáo dục v.v...), các tông phái, các địa phương (nhiều cấp), để hướng đến thống nhất ý chí và hành động. Những ủy ban tư vấn mở rộng đến mọi thành phần dân chúng, kể cả tín đồ của các tôn giáo khác, cũng có thể được hình thành, vẫn với mục đích thu thập càng nhiều quan điểm, càng nhiều hiểu biết, càng tốt.
b) Sự tương đối thiếu vắng Phật Giáo ở phía bắc vĩ tuyến 17 có thể được bù đắp phần nào nếu có được một ý chí mạnh mẽ, và nếu được thực hiện cùng lúc với việc thành lập những cơ sở cứu tế xã hội, giáo dục cấp thấp (mẫu giáo, tiểu học, lớp dạy nghề cho người ít học, v.v...), giải trí, văn nghệ, thể thao (lớp võ thuật, khí công, như đã nói), hay những cơ sở sản xuất tạo công ăn việc làm cho dân chúng. Tức là nên đến với người dân để phục vụ cho họ, giải quyết những nhu cầu của họ, chứ không phải để phục vụ cho Phật Giáo, thỏa mãn ước vọng phát triển Phật Giáo.
c) Tâm lý cho chính trị là chuyện “không nên làm”, thật ra, chỉ là một vấn đề danh từ. Tùy theo quan điểm, mà người ta gán cho chữ “chính trị” một nội dung khác nhau, rồi nghĩ rằng nên hay không nên “làm chính trị”. Người Phật Tử vẫn biết “danh sắc” (nama rupa) (29) là hư hão, là một trong thập nhị nhân duyên, nguồn của đau khổ. Vì thế, nếu có dịp bàn luận đến nơi đến chốn, họ sẽ tránh bị lọt vào cạm bẫy của cái “danh” trừu tượng, hư hão, sẽ ít nghĩ là “nên hay không nên làm chính trị”, mà sẽ có khuynh hướng tự hỏi: “theo sự giảng dạy của Đức Thích Ca, trước một vấn đề xã hội nào đó, ta nên làm gì ?” Điều quan trọng là thấy và làm những việc cần làm, dưới sự soi sáng của Phật Pháp, chứ không phải là tranh luận về sự xấu-tốt của một việc, tùy theo nó là hay không là chính trị.
d) Vấn đề liên hệ quốc tế của Phật Giáo VN càng ngày càng có nhiều cơ duyên thuận lợi. Như đã nói ở phần trước, những quốc gia phát triển nhanh trong vùng Đông Á, dẫn đầu là Nhật Bản, đều là những nước mang nặng ảnh hưởng Phật Giáo. Ở đó, cớ những Tông Phái có nhiều phương tiền và có sự truyền thừa rộng rãi trên thế giới. Các Giáo Phái ấy rất có thể trở thành những bạn quý của Phật Giáo VN. Mặt khác, các lân bang Miên, Lào, Thái, Miến, của VN, là những nước Phật Giáo. Các quốc gia này năm giữa “thế giới Trung Hoa” ở phía Bắc, “thế giới Ấn Độ” ở phía Tây, và các nước Hồi Giáo ở phía Nam. Mặc dù hiện thời còn một số trở ngại, VN và các quốc gia vừa kể có nhiều điều kiện đi đến sự kết hợp thành một khối quốc gia, để giúp nhau tự bảo vệ trước những đe dọa chung, đê chung sức phát triển kinh tế, và duy trì nền tảng tinh thần chung là Phật Giáo. Khối quốc gia này có khả năng đóng góp cho sự ổn định nội tại của vùng Đông Nam Á. Bàn đến triển vọng liên hệ quốc tế của Phật Giáo VN, chúng ta không thể quên khuynh hướng “toàn cầu hóa” Phật Giáo đã được bắt đầu với Thiền Tông Nhật Bản và Mật Tông Tây Tạng. Tuy mới ở trong tình trạng phôi thai, khuynh hường này đã đạt được những thành quả khả quan, đặc biệt là tại các nước Tây Phương, như đã nói ở đoạn đầu. Phật Giáo VN có khả năng tham gia vào sự “toàn cầu hóa” ấy, với những Phật tử và Tăng Ni VN hiện diện ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Vấn đề là ý chí, và tổ chức. Tham dự được vào khuynh hướng “toàn cầu hóa” của Đạo Phật, Phật Giáo VN sẽ giải quyết được phần nào sự ngăn cách cố hữu của mình trong những liên hệ quốc tế.
3) Đóng góp trong việc phát triển kinh tế :
Như đã được trình bày, Phật Giáo có khả năng hỗ trợ cho những chính sách kinh tế phù hợp với sự giảng dạy của Đức Phật. Trong Đạo Phật cũng có những yếu tố thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, đã được bàn đến ở phần trước. Chúng tôi không lập lại tất cả các yếu tố này, chỉ xin chọn làm tiêu biểu tiềm năng đóng góp của Đạo Phật trong một vấn đề quan trọng của kinh tế VN trong thời gian tới, đó là :
Nhu cầu kềm hãm tiêu thụ hàng ngoại hóa, để bảo vệ sự sản xuất nội địa trong điều kiện phát triển còn non kém. Thật ra, cũng cần kềm hãm tiêu thụ nói chung, để gia tăng tiết kiệm. Phật Giáo dạy tiết giảm dục vọng, bớt ham muốn, bớt bị quyến rũ bởi sự đua đòi tiêu thụ, nhất là thèm thuồng hàng ngoại hóa, để tìm về những nguồn vui giản dị, nhất là với sự hoàn hảo của công việc mình hiện làm... Sự giảng dạy này có thể có lợi cho việc phát triển kinh tế. Thật ra, nó rất khó được người dân nghe theo, và, nếu muốn thực sự kềm hãm tiêu thụ, đặc biệt là tiêu thụ hàng ngoại hóa, vẫn cần có những chính sách thuế khóa, lãi xuất, tiền tệ v.v...Tuy nhiên, sự giảng dạy trên của Phật Giáo (cùng với một số quan niệm khác như tinh thần trách nhiệm chung), sẽ có tác dụng hỗ trợ cho những chính sách kia, cho chúng một nội dung Đạo Lý, giúp người dân đón nhận chúng một cách dễ dàng hơn. Mặt khác, cần biết là các chính sách tiền tệ, thuế khóa, v.v...để hạn chế tiêu thụ hàng ngoại hóa thường đưa đến những sự trả đũa của các quốc gia có nhiều trao đổi mậu dịch với VN. Vì thế, người dân càng tự giác, thì càng đỡ phải đề ra những chính sách có thể bị vô hiệu hóa bởi sự “phản công” của các nước khác.
4) Xoa dịu bất công xã hội :
Đây là một vai trò trọng yếu của Phật Giáo. Vai trò ấy có thể đưa Phật Giáo VN đến việc tích cực vận động quần chúng đứng lên đấu tranh chống bất công, áp bức, hay ngược lại, đến một thái độ hòa giải, làm dịu bớt những căng thẳng trong xã hội. Thật vậy, một chính phủ dù cho có nhiều thiện chí và khả năng cách mấy cũng vẫn có lúc phải hy sinh một phần mức sống của người dân trong một giai đoạn nào đó. Sự hy sinh ấy có thể rất khó chịu đựng được bởi những thành phần dân chúng đã nghèo khổ sẵn. Nó có thể đào sâu một số bất công. Các Tăng Ni sống gần dân chúng là nơi nương tựa của những người thiếu may mắn ấy. Cần tổ chức một hệ thống “công tác xã hội” hiệu quả, với những nguồn tài trợ chắc chắn, những cán bộ có khả năng, trong những cơ cấu hợp tác chặt chẽ với nhau, và luôn theo sát nhu cầu của người dân. Trong thời gian kinh tế nước nhà còn chưa đủ mạnh, chính phủ chưa đảm đương nổi, thì phần lớn các “công tác xã hội” mà chính phủ chưa đảm đương nổi sẽ tùy thuộc nơi tư nhân, đứng đầu là tôn giáo, và đặc biệt là Phật Giáo. Thực hiện được một cách tốt đẹp công việc ấy, Phật Giáo VN sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy khả năng tổ chức và quản trị của mình.
Thật ra chức năng chính của Phật Giáo trong lãnh vực này là biến “công tác xã hội” thành một công việc chung của mọi người dân Việt, bắt đầu từ người Phật Tử. Thật vậy, trước sự “xé nhỏ” của xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn “tư bản đỏ”, một phản ứng đoàn kết trong tình tương thân tương trợ, giữa mọi người Việt, từ Nam chí Bắc, có thể trở thành một vấn đề sống còn. Nếu cứ tiếp tục mạnh ai nấy xoay xở, mạnh ai nấy chạy theo lợi lộc riêng tư và những nhu cầu tiêu thụ ngày một gia tăng, rồi sống chết mặc bay, thì xã hội VN sẽ rất dễ tuột dần xuống một vực sâu khó cưỡng lại được. Bất công sẽ chất chồng lên bất công, và, nếu trước những bất công ấy chỉ có một bức tường ích kỷ, thì bạo lực sẽ nảy sinh. Lúc ấy, chỉ cần một cơn lốc khủng hoảng là xã hội tan rã. Chưa kể đến sự lợi dụng của những người cơ hội chủ nghĩa, những người muốn tái lập trật tự trong độc tài sắt máu.
Để thực hiện chức năng vừa nói, Phật Giáo có thể dựa vào khả năng giáo hóa quần chúng, với hệ thống chùa chiền, trường học, và nhất là với gương sáng của các Tăng Ni cũng như mọi người Con Phật.
Tâm Bồ Tát cần được quảng bá bằng hành động hơn là bằng lời nói.
5) Bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc :
Một xã hội cần hấp thụ những điều mới mẻ để thăng tiến. Tuy nhiên sự tiếp thu cái mới rất cần một nền tảng vững vàng, là truyền thống văn hóa. Thiếu nền tảng ấy, những viên gạch góp nhặt được từ bốn phương trời để xây dựng ngôi nhà VN chỉ là đống gạch vụn, cho trẻ nít đùa giỡn liệng nhau bể đầu mà thôi ! Từ thế kỷ trước, phần lớn trí thức VN đã nhìn sự ngự trị của người Pháp trên đất nước, mà hoài nghi, rồi loại bỏ những giá trị văn hóa truyền thống của mình. Rồi, hàng hàng lớp lớp, họ “theo mới, hoàn toàn theo mới”. Nhưng, khi “đoạn tuyệt” với cái “cũ”, họ vẫn chưa biết theo cái “mới” nào ? Rốt cuộc là mỗi nhóm người, tùy cơ duyên mà theo cái mới này hay cái mới khác, học được ở người Tây Phương. Khi tìm cách áp dụng “cái mới” vào xã hội VN, những người ấy chỉ còn biết cư xử như “người” của chủ thuyết, của tư tưởng mà họ đã học được, chứ không còn biết cư xử như người Việt Nam nữa. Điều này đưa đến phân hóa trầm trọng, từ trong tư tưởng, rồi đến thù nghịch nhau, và đến chiến tranh huynh đệ tương tàn. Sự hàn gắn khó mà quan niệm nổi, nếu không có một nền tảng chung để trên đó, có thể sắp đặt những viên gạch rời rạc kia thành những bức tường, thành ngôi nhà VN. Nền tảng ấy là truyền thống văn hóa. Các quốc gia phát triển nhanh trong vùng Đông Á đều đã duy trì được truyền thống văn hóa của họ, trong khi tích cực tiếp thu cái mới. Kết quả là họ đã thích nghi được những cái mới ấy với các điều kiện lịch sử, địa lý, nhân văn của họ, tức là với con người và đất nước họ, và đồng thời thích nghi hóa xã hội trong đó họ đang sống với những đòi hỏi của thời đại. Thích nghi, thì tồn tại và phát triển, không thích nghi thì suy thoái và tiêu vong. Đó là quy luật của cuộc sống. Vì thế, việc bảo tồn truyền thống văn hóa là một trách nhiệm quan trọng mà dân ta, nước ta, trông cậy nơi Phật Giáo.
Thật vậy, truyền thống văn hóa nước ta bao gồm những yếu tố nguyên thủy, đến từ thời các vị Vua Thánh, như Thần Nông, rồi mới phân thành hai nhánh Bắc, Nam, với người Việt là đại diện của nhánh Nam Phương. Sau đó, lại hòa trở lại với phương Bắc qua các tư tưởng Nho và Lão, cũng là những tư tưởng kế thừa các yếu tố nguyên thủy kia. Rồi mới tiếp thu Phật Giáo, làm thành Tam Giáo, quấn quyện lấy nhau, hòa hợp lẫn nhau, trở nên tư tưởng của người Việt, phát huy vào đời sống thành văn hóa Việt Nam. Ngày nay, Nho và Lão tuy vẫn tiềm tàng trong tư tưởng và văn hóa của người Việt, nhưng đâu là những định chế có đủ tính cách đại diện cho hai giòng tư tưởng này ? Vậy, trong Tam Giáo chỉ còn Phật Giáo là có những cơ chế đại diện cụ thể. Điều này, cùng với sự gắn bó chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại liên tục của ba giòng tư tưởng Nho, Phật, Lão, với nhau từ nhiều thế kỷ, khiến cho người ta có thể nhìn nhận nơi Phật Giáo vai trò bảo tồn toàn bộ truyền thống văn hóa dân tộc. Bản chất cởi mở của Phật Giáo khiến cho những nhà Nho học, Đạo Học, không ngần ngại hướng đến Phật Giáo như một chỗ dựa yên ổn. Mặt khác, tính chất hiện đại, phù hợp với khoa học, của Phật Giáo, cũng khiến cho những tư tưởng mới mẻ, tân tiến, không sợ bị gạt bỏ một cách giáo điều, mà ngược lại, có thể coi Phật Giáo như một đồng minh quý báu. Đó chẳng qua chỉ là sự thể hiện của tinh thần “bất nhị”, “vô phân biệt”, giữa bảo vệ truyền thống và tiếp thu cái mới, mà Phật Giáo đã hàm chứa sẵn tự trong bản chất của mình.
KẾT :
Phật Giáo có nhiều khả năng đóng góp cho thời đại mà chúng ta đang sống, và cho người dân nươc Việt. Tuy nhiên, những khả năng lý thuyết ấy chưa bảo đảm được sự thành công khi phải thực sự đụng chạm với thực tế. Chúng ta vẫn phải tự hỏi : những khả năng kia sẽ được cụ thể hóa bằng cách nào ? sẽ đến với thực tế bằng những nẻo đường nào ?
Trên bình diện cá nhân, chúng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề phương pháp."Thuyết Pháp” không phải chỉ là giảng dạy một Đạo Lý, mà chính là vạch ra những phương pháp cụ thể, thích nghi với từng trường hợp, cho người học có thể chứng nghiệm được Đạo Phật, sống thực Đạo Phật bằng cả tâm trí lẫn sác thân mình. Mặt khác, muốn “nói Pháp” cần có người “nghe Pháp”. Vì thế, cũng cần những phương pháp để đại chúng đến với Đạo Phật, để Đạo Phật đến với đại chúng.
Hướng tới một Phật Giáo Thời Đại, là :
-tìm những phương pháp để đưa Phật Giáo đến với con người thời đại, -và chọn lọc những phương pháp để giải quyết một cách hiệu quả những vấn đề của con người thời đại.
Trên bình diện xã hội, chúng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề cơ chế. Đó là điều kiện để có thể ảnh hưởng một cách hữu hiệu vào xã hội. Cần có đảng phái ? Cần có những hệ thống tổ chức từ thiện, giáo dục, văn hóa, thể thao ? Cần có những cơ cấu chuyên viên ? Tăng Đoàn cần được tổ chức ra sao ? Vai trò chỉ đạo của Tăng Đoàn trên các cơ cấu khác nên như thế nào ? Chúng ta chỉ đề ra vài ý kiến tổng quát. Sẽ còn phải khai triển thêm, trong từng vấn đề, với từng hoàn cảnh.
Cả trên bình diện xã hội lẫn trên bình diện cá nhân, có thể một số phương pháp sẽ thất bại, một số cơ chế sẽ không thích hợp. Điều đó không thể tránh được. Vấn đề là làm sao cho Phật Giáo không thất bại. Có lẽ tự trong Phật Giáo đã có sẵn yếu tố làm cho Phật Giáo không bao giờ thất bại. Đó là ý thức “Vô Ngã”, “Vô Tự Tánh” áp dụng cho chính Phật Giáo. Thật vậy, muốn cho Phật Giáo không bao giờ thất bại, phải chăng là nên hành động mà không cần nghĩ đến “Phật Giáo” như một thực thể có tự tánh, có “Ngã” ? Khi đó, không còn vấn đề “Phật Giáo” thành công hay thất bại, mà chỉ có vấn đề thành quả của những việc làm giúp ích cho con người thời đại. Việc này không thành, thì việc kia thành. Điều mà ta cần ưu tiên chú tâm vào, là những vấn đề của con người thời đại chứ không phải những vấn đề của Phật Giáo. Đó chính là con đường Trung Đạo, tập trung vào cái “Dụng”, mà không cần quá bận tâm nơi “Thể”, “Tướng”.
Tóm lại, chỉ thực sự có được một “Phật Giáo Thời Đại”, khi Phật Giáo biết phục vụ cho thời đại, cho con người thời đại. Không thể có “Phật Giáo thời đại” nếu bắt thời đại, bắt con người thời đại, phục vụ cho Phật Giáo. Như lời Đức Đạt Lai Lạt Ma (33):
“Nếu Tôn Giáo đặt thành vấn đề thì nên vứt bỏ Tôn Giáo đi !”
NGUYỄN HOÀI VÂN 22 tháng tám 1994
CHÚ THÍCH :
(28)"Tôn Giáo và Chính trị”, Nguyễn Hoài Vân, Thời Luận(Los Angeles), Ngày Nay (Houston) 15/10/1992, Điểm Tin Báo Chí (Tiệp) sô 51, Diễn Đàn Thanh Niên (Hoa Kỳ), Cánh Én (Đức) số 18, Việt Trẻ (Tiệp) số 4, Việt Luận (Úc), và :“Đa Đảng và Dân Chủ Hóa” - Nguyễn Hoài Vân - tuyển tập “Những vấn đề VN” - Nhà Xuất Bản Trăm Hoa - Hoa Kỳ.
(29).Cũng để ý chữ “nama” trong Sanskrit là nguồn gốc của chữ “name” trong Anh Ngữ.
(32)"Nghèo, là bị cấm cản không với tới được phần lớn sản phẩm và dịch vụ mà xã hội đem lại. Đây không phải là một vấn đề lợi tức : sự cầm cản ấy còn gắn liền một cách cố định với những bất công trong quyền thụ hưởng những lợi ích công cộng, trong sự phân phối đất sống ở các đô thị, và trong quyền tự tổ chức để chống bất công” - Asia : a Billion Consumers - The Economist - 30/10/1993.
(33) LExpress 16/9/1993
|