II) KHẢ NĂNG ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO TRONG THỜI HIỆN ĐẠI
A) TRÊN BÌNH DIỆN CÁ NHÂN :
Trên lý thuyết, người ta có thể dễ dàng đối chiếu những điều Đức Phật và các truyền nhân của Ngài giảng dạy với phần lớn những vấn đề của con người thời đại trên bình diện cá nhân. Chúng ta sẽ duyệt qua khía cạnh ly thuyết này, trước khi bàn đến hiệu quả rất kém cỏi của chúng trong thực tế, để nhấn mạnh đến khía cạnh phương pháp trong Phật Giáo.
1) Thỏa hiệp với khoa học :
Điểm lý thuyết đầu tiên mà chúng ta có thể ghi nhận, là : trong khi con người thời đại đánh mất tính tôn giáo của mình, đưa đến tình trạng “vong thân”, với những hoang mang, buồn chán, như đã nói ở trên, mà đồng thời lại bị khó khăn trong việc tìm lại cái tính tôn giáo ấy, do sự cản trở của óc khoa học, thì Phật Giáo đem lại một “tôn giáo” phù hợp với những khám phá khoa học mới mẻ nhất.
Nhu cầu “thỏa hiệp” giữa tôn giáo và khoa học được cảm nhận rất rõ ràng qua trường hợp của Chủ Thuyết Marx. Thật vậy, chủ thuyết Marx là một lý thuyết mang tính khoa học, nhưng lại thường được cảm nhận như một tôn giáo. Chúng ta đã thấy sức cuốn hút vô cùng mạnh mẽ của chủ thuyết ấy trong trường tư tưởng của thế kỷ 20. Ngày nay, chủ thuyết này không còn hợp “thời trang nữa, nhưng, nhu cầu “thỏa hiệp” giữa tôn giáo và khoa học vẫn còn nguyên vẹn. Phật Giáo đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu này.
2) Lo sợ vì cuộc sống vượt ngoài tầm tay của mình :
Như đã nói ở trên, con người thời đại sinh hoạt trong một cuộc sống vượt ngoài tầm tay mình. Trước kia, con người có thể cầu cho mưa thuận gió hòa, và lỡ có lụt lội, hạn hán, cũng có phương pháp cúng kiếng cầu đảo. Ngày nay, ông Thần nào ảnh hưởng được trên trị giá của đồng Đô La, trên lãi suất của Bundesbank ? Các chính sách kinh tế, tiền tệ, an sinh xã hội, năng lượng v.v...đa số đều rất phức tạp, khiến người dân thường khó mà hiểu nổi, mặc dù những chính sách ấy ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của họ. Cảm giác bất lực này làm cho sự hoang mang lo sợ trước những bất trắc của cuộc sống bị nhân lên gấp bội phần.
Trong tình trạng ấy, Phật Giáo dạy quay về với chính nội tâm mình để tìm nguồn gốc của đau khổ, thay vì chạy theo các nguyên do bên ngoài mình, mà mình không thể hiểu được, hay không thể ảnh hưởng tới được. Rồi, từ sự ý thức những nguyên do của khổ đau, Đạo Phât dạy tìm những yếu tố diệt khổ, và con đường đi đến các yếu tố ấy. Theo một quy luật tâm lý học dễ hiểu, thì chỉ cần đặt chân trên con đường này, là khổ đau, lo sợ, đã giảm bớt đi rất nhiều rồi.
Thêm vào đó, thuyết nhân-quả dạy chú trọng vào “nhân” để đừng sợ “quả”. Đó là dạy đừng lo sợ trước những gì có thể xảy đến trong tương lai, mà hãy tập trung vào việc gieo rắc những “nhân” lành trong hiện tại, qua việc làm, lời nói và tư tưởng. Làm việc tốt lành, tự nó đã là một hạnh phúc. Tập trung vào đó, mà quên đi những nghịch cảnh đang hay có thể xảy đến, thì chính là xa lánh ưu tư, lo lắng, mà trầm mình trong nguồn hạnh phúc vậy.
Một khía cạnh khác của thuyết nhân-quả, là sự chấp nhận những gì xảy đến cho mình như những điều bắt buộc, không thể tránh được, không làm sao khác được. Lo lắng cách mấy cũng vô ích, vì một khi cái “nhân” đã gieo rồi, thì “quả” bắt buộc phải gánh chịu. Chấp nhận, là an phận, và an phận, là bớt sợ hãi, bớt lo lắng. Nói cách khác, chấp nhận nghịch cảnh, chính là thoát khỏi nghịch cảnh, vì khi đó nghịch cảnh là một cái gì tự nhiên, thuận quy luật, tức không còn “nghịch” nữa.
Với Thuyết Vô Thường, cho là sự vật luôn biến đổi (theo quy luật nhân duyên), Đạo Phật cũng dạy đừng quá chú tâm vào những điều hư hão, luôn thay đổi, mà hãy tập trung vào cái cốt lõi của con người mình. Cái “cốt lõi” ấy là gì, thì tùy trình độ nhận thức, nhưng dù cho ở trình độ nào đi chăng nữa, sự giảng dạy này cũng khiến cho người ta bớt quan tâm tới những cái phụ thuộc như : tiền bạc, nhà cửa, xe cộ, quần áo v.v...và bớt lo lắng cho sự được-mất của những thứ đó. Rồi cái mà người ta coi là “cốt lõi” dần dần đi vào con người mình, trở thành thân sác, tức sức khỏe, và người ta nói :“giàu nghèo thây kệ, miễn có sức khỏe"(hay “sức khỏe là vàng"), rồi vào sâu hơn nữa, trở thành cái “tâm” thường ngày, và người ta lại nói :“sao cũng được, miễn là tâm hồn thanh thản”...Cứ như thế, với chút duyên lành, người ta càng ngày càng tiến sâu thêm, và ý thức được tới những tầng cấp khác của tâm, có khi tập trung được vào những điều như “bản lai chân diện mục”, “Phật Tánh”, hay “Tâm Vô Ngã” để đạt đến một mức đọ an tĩnh rất cao, nghịch cảnh không còn lay chuyển nổi.
Một sự giảng dạy rất quan trọng khác của Đạo Phật, có khả năng đánh tan những ưu tư lo lắng, là lòng từ bi, hạnh bố thí. Dù cho chỉ là bố thí cầu phúc, chứ chưa được là “bố thí ba la mật” (với “tâm vô sở trụ"),thì sự bố thí ấy vẫn có khả năng khiến cho con người biết quên mình đi một chút, bớt nghĩ đến những ưu tư của mình, để nghĩ đến người khác. Có lần tôi đọc được một lời nguyện như sau :“nguyện cho cuộc đời tôi khổ sở hơn hiện tại gấp trăm ngàn lần, để cho chúng sinh được bớt đau khổ”. Kẻ nguyện lời này, dù chỉ trên đầu môi chót lưỡi, chứ không thành thật tâm niệm nó, cũng có thể có được một cái nhìn tích cực hơn đối với sự đau khổ. Biết đâu kẻ ấy lại chẳng dễ dàng chấp nhận một sự khổ đau nào đó hơn một chút, nếu nghĩ được rằng nhờ đó, mà mẹ mình, con mình, những người mình yêu mến, bớt khổ ? Thật ra, nguyện “khổ hơn trăm ngàn lần” không phải là đi tìm sự đau khổ, mà là sửa soạn tâm hồn để dù cho một sự khổ sở to lớn có xảy đến, thì mình cũng vẫn vui vẻ gánh chịu. Đó là tìm niềm vui. Vui trong cái khổ, trong nghịch cảnh, với “Bồ Đề Tâm”, và “Vô Phân Biệt Trí” (phiền não tức Bồ Đề). Và nguyện cho “chúng sinh bớt khổ”, chính là phân bố niềm vui (trong cảnh khổ) kia cho người khác, vừa là “Pháp Thí”, vừa là “Vô Úy Thí”. Theo tư tưởng “vô phân biệt”, thì “cho” cũng là “nhận”, nên người thực hành bố thí, cũng lãnh nhận những gì mình cho, và cũng giải quyết được những vấn đề của chính mình.
Tựu trung, trước một cuộc sống càng ngày càng vượt ngoài tầm tay của mình, quan niệm được rằng vui, khổ, chỉ là một vấn đề nội tâm, cho thấy mọi người đều có khả năng giải quyết vấn đề ấy, một cách bình đẳng, bằng sự quay về với chính tâm hồn mình. Nói cách khác : phương pháp để giảm bớt lo sợ trước ngoại cảnh không cần tìm nơi ngoại cảnh, mà do một sự thay đổi nội tâm. Đó là một đóng góp lớn của Phật Giáo, đặc biệt trong thời hiện đại.
3) Buồn chán vì mất ý nghĩa thăng hoa của công việc làm :
Như đã nói ở phần trước, con người thời đại bị ảnh hưởng bởi tính duy lợi của xã hội, và gần như chỉ còn biết làm việc cho riêng mình. Điều này đưa đến những phản ứng buồn chán, vì, một lúc nào đó, sự thiếu vắng một ý nghĩa thăng hoa cho công việc làm khiến người ta không còn muốn cố gắng, không còn muốn đem hết sức lực, trí tuệ và sự khéo léo của mình vào công việc làm nữa. Để làm gì ? Đó sẽ là câu hỏi ám ảnh tâm hồn con người ích kỷ, nhìn cuộc sống như một thời gian hưởng thụ sẽ chấm dứt trong bùn đất của nghĩa trang. Thật vậy, nếu cuộc sống ngắn ngủi này chỉ là một thời gian hưởng thụ thì anh làm việc cho nhiều để làm gì, và dù cho có bị bắt buộc phải làm việc, thì cần chi cố hết sức làm cho hay, cho tốt ? Anh phải dành thật nhiều thời giờ, thật nhiều tâm trí, để hưởng thụ những lạc thú của cuộc đời chứ ! Từ đó, người ta coi việc làm như một gánh nặng, một sự trừng phạt, một sự khổ đau, một cái giá phải trả để được hưởng thụ cuộc sống.
Đạo Phật lật ngược cái logique này lại, và dạy lấy chính công việc làm là mục đích của công việc làm. Không còn vấn đề làm việc để đạt đến một mục đích (hưởng thụ), mà chính sự làm việc đã là mục đích, là niềm vui của người làm việc. Các bà mẹ thường dễ cảm nhận ý tưởng này, vì khi các bà làm công việc nội trợ, thí dụ nấu một bữa ăn ngon cho chồng con thưởng thức, thì các bà rất dễ dàng cảm thấy hạnh phúc trong chính lúc làm việc ấy.
Mặt khác, khi dạy tập trung vào hiện tại, “sống từng sát na”, hay “từng hơi thở”, Đạo Phật dạy con người tìm hạnh phúc trong cái mà mình hiện có, trong việc mà mình hiện làm, dù cho mình có đang làm việc, hay đang vui chơi giải trí. Lester Thurow, Khoa Trưởng Phân Khoa Kinh Tế của Đại Học MIT có trích một đoạn văn mà ông nói là lấy từ Kinh Điển Phật Giáo, như sau : “Bậc Thày trong nghệ thuật sống không hề phân biệt trong bản chất, giữa làm việc và vui chơi giải trí, giữa cố gắng và lạc thú, (...). Ngài tìm sự hoàn hảo trong bất cứ công việc gì, và để mặc cho những người khác quyết đoán là Ngài đang làm việc hay đang chơi đùa” (19). Khi tìm được niềm vui trong chính công việc làm thường ngày, không còn phân biệt làm việc với hưởng thụ nữa, thì cuộc sống sẽ bớt là một gánh nặng, và sự buồn chán sẽ có thể tránh được.
4) Thái độ bất mãn thường trực :
Một trong những đặc tính của con người thời đại là luôn bất mãn. Chính phủ nào lên cũng bị dân chúng than phiền, trách móc. Và dù cho đời sống của họ có cao hơn phần còn lại của nhân loại đến hàng ngàn lần, dù không bị chiến tranh, đói khổ, người ta vẫn luôn bất mãn. Người ta bất mãn với chính quyền, với chủ nhân, với chồng, với vợ, với con, với cha mẹ, với hàng xóm, với bạn cùng sở làm, với tất cả ! Tổng Thống de Gaulle từng nói : “Pháp Quốc có năm mươi triệu dân, và năm mươi triệu sự bất mãn”.
Sự giảm bớt ham muốn, thường được nhấn mạnh trong Phật Giáo, khiến cho người ta bớt bất mãn. Lòng từ bi, nghĩ đến nỗi khổ của người khác cũng có thể làm giảm bớt sự bất mãn vì những lý do riêng tư. Ý tưởng phải quay về với bản tâm mình, cũng có thể giúp con người bớt tìm hạnh phúc nơi những cái ở ngoài mình, bớt đòi hỏi nơi ngoại cảnh như một cái gì biệt lập với nội tâm. Chạy theo ngoại cảnh, mà không ảnh hưởng được trên nó, đương nhiên dễ sanh ra thất vọng, bất mãn. Quy tất cả vào Tâm, tìm sự thay đổi nội tâm, phủ trùm lên ngoại cảnh, là cách giảm bớt bất mãn. Thêm vào đó, tìm niềm vui trong giây phút hiện tại, trong cái mình hiện có, trong sự hoàn hảo của công việc mình đang làm, mà không cần “chấp trước” nơi những thành quả của nó, cũng là một cách để đừng chờ đợi, đừng chạy theo những “phần thưởng” nào đó trong tương lai, để rồi lại thất vọng, bất mãn.
5) Cảm giác cô đơn :
Con người thời đại thường có cảm giác bị cô lập, thiếu cảm thông, đưa đến buồn bã. Như đã nói ở phần trước, họ bị cô lập với cảnh vật tự nhiên trong những đô thị lớn. Từ đó, có khuynh hướng coi thiên nhiên như xa lạ, khó cảm thông.
Đạo Phật có thể đem lại cho họ những điều bổ ích khi dạy hòa mình với thiên nhiên, qua cái Phật Tánh cùng hiện diện nơi mình và nơi vạn vật. Ta nhận thấy điều này qua các tác phẩm nghệ thuật mang ảnh hưởng Phật Giáo. Thí dụ qua những bài Hài Cú của Thiền Sư Ba Tiêu, người đọc có thể đem tâm hồn mình hòa vào cảnh vật, làm cánh hoa Nazuna bên hàng giậu, làm chiếc lá cô đơn trên cành ngô đồng hồi hộp chờ gió thổi, làm con ếch nhảy xuống ao, làm chú chim cu bận rộn...Và khi nhìn trăng rằm mà tưởng nhớ đến “vầng trăng non dại” đã theo bước chân mình bấy lâu, vị Thiền Sư cho thấy : vầng trăng kia cũng là chính mình, thuở nào còn non dại... (20). Cảm thông được với cảnh vật như vậy thật chẳng khác nào có thêm những người bạn mới, những niềm vui mới, và cũng là phương cách để giảm bớt sự cô lập của mình đối với thiên nhiên vạn vật.
Mặt khác, sự cô lập của con người thời đại đối với những con người khác, ngoài sự buồn chán của nó, cũng là một lý do đưa đến hoang mang lo lắng. Quá tập trung vào cá nhân mình, con người không còn gắn liền cuộc sống của mình với định mệnh lý tưởng của một tập thể, hay của toàn nhân loại được nữa. Mỗi nghịch cảnh xảy đến, đều mang một ý nghĩa tàn phá kinh khủng đối với cuộc sống của cá nhân, nếu cá nhân ấy không tin tưởng được rằng cuộc đời anh ta nằm trong một giòng định mệnh chung với những con người khác.
Sự giảng dạy của Phật Giáo có thể có ích trong lãnh vực này. Ngoài Đức Từ Bi, giúp con người phá tan sự cô lập của mình đối với những người khác, Đạo Phật còn cho rằng mọi con người đều là những vị Phật nhưng chưa biết mình là Phật. Điều này giúp hình dung một viễn tượng tốt đẹp cho mọi người, một loại “định mệnh lý tưởng chung”, như vừa nói.
6) Sự kinh sợ trước cái chết :
Trong bối cảnh cô lập của con người thời đại, nghịch cảnh quan trọng nhất có lẽ là cái chết, thường bị cảm nhận như một tai họa tuyệt đối. René Laurentin viết rằng :“Nền văn minh cơ khí và duy vật của chúng ta đã đánh mất ý nghĩa của sự chết (...) Giáo Hội cũng bị ràng buộc bởi tâm lý ấy. Các Linh Mục ít dám đề cập đến viễn tượng này" (21).
Đạo Phật nhấn mạnh đến lẽ Vô Thường của mọi sự vật, khiến cái chết chỉ là một thay đổi trong chuỗi thay đổi triền miên mà ta vẫn phải chịu từ khi hiện hữu. Thật vậy, cái tôi bây giờ không phải là cái tôi của ba mươi năm về trước, kể cả trên phương diện vật lý (các nguyên tử cấu thành con người tôi ba mươi năm về trước ngày nay đều đã bị thay đổi), lẫn trên phương diện tâm lý (những gì tôi nghĩ lúc ấy, ngày nay xa lạ với chính tôi). Từ đó có thể suy diễn rằng : mỗi giây phút, ta đều thay đổi, vừa “chết” đi, vừa “sanh” ra, với ý thức rằng : trong thực tế khách quan, chẳng có gì chết đi, cũng chẳng có gì sanh ra, chỉ có sự dời đổi vị trí giữa những thành tố của con người ta và của sự vật trong trời đất. Quan niệm như thế, cái chết nhiều khi đỡ đi được phần nào sự rùng rợn.
Cũng có thể nói : nguyên do quan trọng khiến con người sợ chết là tính “chấp ngã”, cho rằng có một “cái tôi” trường cửu. Lacan có kể lại trường hợp một bà bệnh nhân của ông nằm mơ thấy mình chết đi rồi sống lại liên tục, trải hết cuộc sống này đến cuộc sống khác. Bà ta kinh hãi trước viễn tượng ấy, và vội vã chạy đến phòng mạch của Lacan ! Nhà phân tâm học cho biết là viễn tượng sống lại những cuộc sống khác thường gây rất nhiều lo sợ. Nhưng, con người lại vẫn luôn ước vọng mình trường cửu, mãi mãi hiện hữu ! Mâu thuẫn này rất khó giải quyết, gây nhiều vấn đề tâm thần phức tạp. Đạo Phật cho là không có gì có tự tánh, tức là không phải sự vật không hiện hữu, mà chỉ hiện hữu do một tập hợp nhân duyên."Cái tôi” cũng vậy, cũng sanh, diệt, như sự hợp tan của mọi tập hợp “duyên khởi”, và đương nhiên là không có tự tánh trường cửu. Từ đó, đưa đến phá bỏ sự chấp ngã, khiến sống chết không còn đối tượng. Kinh điển Mật Tông cho rằng sau khi chết, nếu có tái sanh, thì chỉ là sự tái sanh của “cái tôi” ảo tưởng. Khi bước vào thế giới bên kia, một ánh sáng phi vật chất, không màu sắc, không thể diễn tả, gọi là ánh sáng nguyên thủy, hiện ra, và người chết phải ý thức rằng đó là ánh sáng của chính mình, rằng “cái tôi” là ánh sáng này, nếu không, thì ánh sáng ấy sẽ trở thành năm ánh sáng : trắng, xanh dương, vàng, đỏ, lục, lần lượt hiện đến cùng với năm vị Phật tương ứng trước khi nhường chỗ cho những ác quỷ vô cùng ghê rợn. Trước mỗi sự xuất hiện như thế, dù cho là Phật hay quỷ, người chết đều phải ý thức rằng đó chỉ là sự phản ảnh của “cái tôi”. Nếu ý thức được như thế, thì “cái tôi” không còn hiện hữu như một cái gì biệt lập nữa, và sự tái sanh không còn đối tượng. Ngược lại, nếu người chết còn có ảo tưởng có một “cái tôi” khác với các vị Phật hay với các ông bà quỷ dữ ăn gan uống máu người kia, thì, hoặc anh ta sẽ rơi vào một cảnh giới tái sanh tương ứng với một vị Phật, hoặc sẽ kinh sợ trốn chạy đám ma quỷ đang làm những chuyện hãi hùng, rồi tùy theo nhân duyên tương hợp mà chui vào ẩn náu trong một cái tử cung để lại tái sanh thêm một chuyến nữa ! Vậy, chỉ có ảo tưởng “cái tôi” là tái sanh mà thôi, chứ một khi đã đạt đến ý thức “vô ngã”, thì chỉ còn có cuộc sống vĩnh cửu. Có thể nói Phật Giáo đã giải quyết vấn đề sanh tử bằng sự sống thường tại của Ý Thức Nguyên Thủy, nguồn của mọi hiện tượng, vượt ngoài thời gian và không gian.
Điều này có dễ dàng được thực sự chứng nghiệm bởi những con người bình thường như bạn đọc và tôi hay không ? Có lẽ là không. Trong trường hợp ấy, Phật Giáo, đặc biệt là Thiền Tông, dạy một điều rất giản dị và thực tế : hãy tập trung vào hiện tại, sống từng giây lát, từng hơi thở, đừng thèm quan tâm đến những chuyện rắc rối, sanh tử luân hồi làm chi cho phiền phức. Khi được hỏi ông có tin thuyết tái sanh hay không ? Thiền Sư Deshimaru nói :“tôi không hoàn toàn phủ nhận thuyết tái sanh, nhưng tôi không cho rằng tôi phải tin nó”. Ông còn thêm :“chỉ có lúc này và bây giờ là quan trọng (...) Lúc này và bây giờ bao hàm cả thiên thu” (22). Nói cách khác, trong lý giải này, Phật Giáo đưa con người vào thiên thu bằng cách tập trung tinh thần nơi mỗi giây lát của hiện tại, loại bỏ sự lo sợ trước cái lẽ vô thường của vấn đề sanh tử.
7) Vấn đề thất nghiệp và suy giảm khả năng tiêu thụ :
Vì giá trị của con người thời đại tùy thuộc khả năng tiêu thụ, nên thất nghiệp, hay nói chung là sự suy giảm khả năng tiêu thụ, trở thành mối ưu tư ám ảnh mọi người, có thể đưa đến những tình trạng tâm thần bệnh hoạn, rất khó điều trị. Người ta ước lượng ở Pháp có 38 % số người thất nghiệp bị bệnh tâm thần, và 19 % người thất nghiệp nghiện rượu. Tình trạng cạnh tranh rất căng thẳng trong thị trường công việc làm khiến cho không cần phải lâm vào cảnh thất nghiệp, người ta cũng sống trong một trạng thái tâm lý què quặt, thường phải dựa vào thuốc men để tiếp tục sinh hoạt hàng ngày. Tại Singapore, thống kê cho biết có khoảng 40 % người đi làm từng phải dùng thuốc an thần.
Trong lãnh vực này, Phật Giáo có thể đem lại những đóng góp đáng kể. Ngoài các lý thuyết đã nói ở trên, như vô thường, nhân quả, từ bi, v.v...giúp con người an phận trước nghịch cảnh đang hoặc có thể xảy đến, và tập trung vào nội tâm, vào hiện tại, hay vào sự giúp đỡ đồng loại, Đao Phật còn dạy giảm bớt tiêu thụ, giảm bớt thèm thuồng, ham muốn, trong khi đề cao giá trị của sự làm việc, đặt niềm vui của cuộc sống trong việc hướng đến sự hoàn hảo của mỗi công việc mà mình đang làm. Thái độ này đua đến một kết quả rất thực tế : khi anh bớt tiêu thụ, mà lại hăng hái làm việc, thì số tiền mà anh tiêu sài sẽ giảm đi, trong khi số tiền anh kiếm được lại có nhiều hy vọng tăng lên. Như thế, anh sẽ càng ngày càng tích lũy được nhiều tiền tiết kiệm, và với số tiền tiết kiệm đó, tương lai của anh sẽ an toàn hơn, anh sẽ bớt lo lắng, bớt những chứng bệnh do lo lắng sanh ra, và bớt...uống thuốc an thần !
8) Thái độ trước tranh chấp :
Khuynh hướng cá nhân chủ nghĩa khiến cho xã hội có nhiều sự cọ sát và va chạm hơn : hai khối thủy tinh lớn trong một cái túi sẽ có ít sự va chạm và cọ sát hơn là hai trăm hòn bi nhỏ, dù cho tổng số trọng lượng của hai trăm hòn bi này bằng trọng lượng của hai khối thủy tinh kia. Đây là một vấn đề gây nhiều căng thẳng nơi con người thời đại.
Sự giảng dạy của Phật Giáo giúp giữ được một thái độ bình thản ngay cả trong những lúc tranh chấp. Quan niệm “nhân duyên” khiến người học Phật luôn tìm hiểu những nguyên do đưa đến một tình trạng hay một hành động nào đó. Người kia làm quấy, nhưng, tại sao người ấy lại làm như thế ? Đâu là những nguyên do ? Có phải do bối cảnh của đời sống hiện tại của anh ta ? hay sự giáo dục của anh ta ? hay một vấn dề tâm lý ? một vấn đề trong quá khứ ? hay một lý do nào khác trực tiếp hơn ? Đặt những câu hỏi như vậy cũng chính là tự đặt mình vào chỗ của người khác, để tìm hiểu, và hướng đến một giải pháp. Thái độ ấy vừa vận dụng lý nhân-duyên, mà cũng thể hiện tâm từ bi, và “bình đẳng quan”. Thật vậy, với bình đẳng quan, bản chất của người chẳng khác gì bản chất của mình, dù cho người đó có độc ác cách mấy đi chăng nữa. Như thế, vấn đề chỉ còn là :“tại sao người ấy cũng như tôi, cũng mang Phật tính như tôi, mà lại làm việc độc ác như vậy ?” Với cách xử thế này, người ta tìm hiểu hơn là lên án, và thù hận, bực tức, nóng nảy, bớt sanh ra, sự thông cảm dễ tìm được, giải pháp tốt đẹp nhất cho cả đôi bên cũng dễ đạt đến hơn.
Người ta cũng tránh được những phê phán tuyệt đối nhờ ý thức, theo Phật Giáo, là mọi việc mà mình nhìn thấy, cảm thấy, hay suy tưởng ra, đều có thể không thật. Không thật, không có nghĩa là không có. Không thật chỉ có nghĩa là không đúng như mình nhận định. Vì thế, mình luôn cần phải nhận định lại, luôn luôn chấp nhận thay đổi nhận định của mình. Bản thân mình cũng “không thật” (cái ngã không tự tánh), cho nên, không những các nhận định của mình thay đổi, mà bản thân mình cũng thay đổi, tùy nhân duyên. Thế thì còn gì để mà phê phán một cách tuyệt đối, khi mà sự phê phán, đối tượng bị phê phán cũng như chủ thể phê phán đều hư huyễn ?
Hành động quá khích, bạo lực, thường do phê phán một cách tuyệt đối. Vì thế, cách nhìn mọi sự kiện theo lý nhân-duyên, cộng với ý thức về “giả tướng” của sự vật, như vừa nói, giúp đi đến một thái độ hòa nhã, khoan dung, quý trọng sự tìm hiểu, và nhất là tránh được bạo lực, khiến cuộc sống bình thản hơn, đỡ căng thẳng khó chịu hơn.
9) Gia tăng hiệu năng trong công việc :
Thị trường công việc làm càng lúc càng nhiều cạnh tranh, khiến mọi người đều có nhu cầu phát triển khả năng của mình một cách tối đa, để tìm được việc làm, hay để khỏi mất việc. Phật Giáo cũng giúp ích được trong lãnh vực thực tế này.
Trước hết là vì Phật Giáo có những phương pháp giúp tập trung tinh thần, và tăng cường trực giác. Đó là những yếu tố rất quan trọng cho hiệu năng của mọi công việc. Tập trung tinh thần, cũng như óc “nhân duyên” của nhà Phật,rất lợi cho việc phân tích. Trong khi đó, trực giác mạnh giúp ích nhiều cho việc nắm vấn đề một cách bao quát, tổng hợp. Kế đến, Đạo Phật luôn dạy tinh thần thực nghiệm, đi sát thực tế, hợp nhất lý thuyết với thực hành, óc “tinh tấn”, không ngừng cố gắng, và tinh thần tự lực, không ỷ lại nơi người khác. Tất cả đều thuận lợi cho sự tăng cường hiệu năng của mọi công việc. Sau hết, Phật Giáo, như đã nói, đem lại một giá trị tự thân cho công việc làm (bao gồm cả sự học hỏi), dạy tìm niềm vui trong sự hoàn hảo của mỗi việc mình đang làm. Tập trung vào hiện tại như thế sẽ giúp người ta bớt lo lắng cho kết quả của việc mình hiện làm, khiến tinh thần đỡ bị chi phối, và hiệu năng khỏi bị giảm sút.
10) Áp dụng vào thực tế : Vấn đề phương pháp
Đa số các điều hay đẹp vừa được trình bày ở trên thực ra cũng đều vô hiệu nếu không đặt vấn đề phương pháp. Thật vậy, nói với một người đang lo lắng vì tiền bạc, vì bệnh tật v.v...rằng ông hay bà phải ý thức lẽ vô thường của sự vật, phải ý thức “ngũ uẩn giai không”, phải biết “trụ vô trụ”, “niệm vô niệm”, hay phải lo tập trung vào cái “bản lai chân diện mục" của mình, chứ đừng lo lắng, thì chắc là sẽ chẳng có hiệu quả gì bao nhiêu ! Còn nếu như thử nói với người thời đại những điều thực tế hơn, như phải tập trung tinh thần vào hiện tại, tìm niềm vui trong mỗi việc mình đang làm, phải bớt ham muốn, đòi hỏi, rồi phải hòa hoãn, biết tìm hiểu người khác, tránh giận dữ, bạo lực, hay phải từ bi, thương người, nghĩ đến khổ đau của người mà quên bớt mình, v.v...thì trong đa số trường hợp, cũng sẽ chỉ được trả lời gọn ghẽ rằng : “những chuyện ấy tôi đều biết”. Thật vậy, ai cũng biết là không nên nóng giận, nhưng người ta vẫn cứ nóng giận, thì làm sao ? Ai cũng từng được nghe những lý lẽ rất xác đáng để đừng tham lam, nhưng người ta vẫn cứ tham lam, thì sao ? Tệ hơn nữa, nếu gặp một người đang lúc suy nhược thần kinh, mà chúng ta lại có nhã ý khuyên bảo người ấy với những điều mà chúng ta nghĩ là “chân lý”, thì rất có thể bệnh trạng người này sẽ càng nặng thêm, nhiều khi đi đến tự vẫn ! Bệnh nhân sẽ bảo với chúng ta :“ông nói rất đúng, tôi biết vậy, nhưng tôi kém cỏi quá, không thể áp dụng những điều đó được”. Chúng ta càng khuyên, người bệnh càng tự thấy mình quá “kém cỏi”, quá “hèn hạ” trước những đạo lý cao siêu và vô cùng chí lý của chúng ta, và càng tự hạ giá trị của mình xuống tận bùn đen...Kẻ đi khuyên người khác thường trình bày sự khuyên nhủ của mình như những chuyện dễ dàng, đương nhiên ("cứ việc” thế này, “chỉ cần” thế nọ), mà quên rằng đó là những lý tưởng rất khó đạt đến, đòi hỏi trải qua nhiều giai đoạn chuyển tiếp trước khi có thể thực sự chứng nghiệm được. Tức là đòi hỏi phương pháp. Nếu không, thì sẽ chỉ đưa đến việc người khuyên càng lúc càng phồng to “cái tôi” của mình lên, trong khi “cái tôi” của người “được” khuyên thì lại càng lúc càng bị đè bẹp, dẫn đến tuyệt vọng...
Vì thế, vấn đề không phải là biết, mà là phương pháp để sống thực cái biết ấy. Chúng ta thường thấy nhiều vị trí thức, rất khoái bàn đến những chuyện như “vô trụ”, “vô niệm”, “vô tướng”, “vô ngã”, “sự vật là giả”, “phải vượt nhị nguyên, đạt đến tuyệt đối”, v.v...Trong đa số các trường hợp, những Vị đó chỉ lập lại những gì các Tổ Sư đã chứng nghiệm được sau một thời gian tu tập rất công phu. Đó là chỗ đến của chư Tổ. Điều quan trọng là con đường khởi từ chỗ đứng của mình, để đi đến chỗ của chư Tổ. Lập lại những điều mà các Ngài đã chứng nghiệm, khi chính mình chưa chứng nghiệm được, chỉ làm phồng to “cái tôi” của mình. Nó chẳng có ích lợi gì bao nhiêu, ngoài việc làm tăng thêm số trí thức bàn qua tán lại. Nói “vô ngã” khi chưa biết quay trở về cái “ngã” của mình để xem hình thù nó ra sao, bàn chuyện “tuyệt đối” khi chưa ý thức rõ được tính tương đối của sự vật (thí dụ vẫn cho các điều mình nói là tuyệt đối đúng !), đòi “giác tha” khi chính mình còn đầy mê lầm, thì sợ rằng đã rơi vào cái bẫy mà Lục Tổ từng thuyết minh qua câu : “kẻ nói không tu, người tu không nói”. Trong Thập Ngưu Đồ, sự thay đổi đầu tiên nơi con trâu, cũng chính là cái miệng (31). Vậy, đóng góp quan trọng nhất của Phật Giáo, theo ý tôi, không phải là những lý thuyết mà người ta có thể tìm thấy trong một số tôn giáo hay triết lý khác, mà là những phương pháp để thực sự “sống” những Đạo Lý đó. Nói từ bi, hay lắm, nhưng làm sao đạt đến tâm từ bi ? Nói “vô ngã”, được, nhưng làm sao đạt đến tâm vô ngã ? Những điều ấy phải tự nhiên hiển lộ ra từ chiều sâu của tâm hồn, chứ không thể cưỡng ép nhét vào từ bên ngoài, bằng ngôn từ hoa mỹ. Phương pháp nói đến ở dây, là hành trình nội tâm để tìm lại những Đạo Lý ẩn tàng trong chiều sâu của mỗi người, thay vì chạy theo những lý thuyết bên ngoài, dù cho những lý thuyết ấy có hay, đẹp, cách mấy đi chăng nữa.
Một điều khác cần nhấn mạnh là phương pháp phải dễ áp dụng đối với cá nhân thực hành nó, tức là phải khởi đi từ chỗ của người tập, chứ không phải từ một luận điểm trừu tượng nào đó của sách vở. Không thể đưa cho người mới vừa biết đàn được vài tuần một bản Sonata của Beethoven, rồi bảo với anh ta : ” đây mới là nhạc hay, anh phải đàn bài này !” Ngược lại, phải đề nghị anh ta gõ lóc cóc những âm giai vô vị, những bản nhạc vớ vẩn của trẻ con, trong nhiều tháng, nhiều năm, trước khi tập tới những bản nhạc thực sự giá trị. Tương tự như vậy, chỉ cho một người muốn học Thiền cách đếm hơi thở (sổ tức), sẽ có ích hơn là giảng cho anh ta chuyện “vượt nhị nguyên” rất nhiều. Nếu quen tập trung tinh thần vào hơi thở, anh ta có thể quên được một số phiền muộn, đầu óc thanh thản, đỡ bệnh tật. Sang một giai đoạn khác anh ta có thể tập trung tinh thần vào những gì mình muốn, và tăng hiệu năng của những gì mình đang làm, trong công xưởng, trong trường học, hay kể cả trong việc “vượt nhị nguyên”, nếu thích !
Vấn đề tiếp theo là : nếu dạy người thời đại những phương pháp như vậy, thì sẽ có rất ít người chịu khó chuyên cần luyện tập. Họ không đủ ý chí, vì ý chí của họ đã được đầu tư vào bao nhiêu là chuyện khác. Còn đối với những người thực tâm có ý chí muốn tập thiền, thì họ cũng sẽ thất vọng khi nghe anh bảo rằng : “cứ đếm hơi thở !” (xin tiếp tục lấy thí dụ này). Lý do vì những người này thường đến với Thiền học để tìm những chuyện cao siêu, mà họ đọc được trong sách vở, chứ đâu thèm để tâm tới những điều bị coi là quá kém cỏi như “ngồi thẳng lưng đếm hơi thở” ? Họ sẽ cho anh là tầm thường, nếu anh không có một sức thuyết phục nào đó. Mặt khác, trong thời đại chúng ta, mặc dù Phật Giáo gặt hái được nhiều thiện cảm, nhưng không chắc là sẽ có nhiều người tìm đến Phật Giáo để học những phương pháp tu tập. Vậy, làm sao giải quyết được ba khó khăn : thiếu ý chí, thiếu tin tưởng, và người ta không tìm đến Phật Giáo ?
Xin đề nghị vài suy nghĩ :
- Nếu người học có chủ ý tìm đến Phật Giáo, thì người chỉ dạy cần có một địa vị nào đó để người học tin tưởng : thí dụ như là một vị Thượng Tọa, Đại Đức, hay một cư sĩ nổi tiếng trong lãnh vực Đạo học.
- Đối với những người đi tìm phương cách giải quyết các khó khăn tâm lý của mình, mà không đặc biệt nghĩ đến Phật Giáo, thì có nhu cầu làm ra hay hoàn chỉnh một số phương pháp trị liệu đến từ Phật Giáo. Chúng ta đều biết phần lớn các phương pháp “relaxation” hay “sophrologie” được áp dụng trong Y Khoa đều mang nặng ảnh hưởng của Yoga (Yoga o trình độ thấp). Có thể thích nghi hóa một số phương pháp hít thở, cử động, điều hòa tâm thần, từng được áp dụng trong Phật Giáo, với lợi điểm hơn các phương pháp Y Khoa hiện hữu, là có khả năng mở ra cho người tập một viễn tượng cao hơn, có thể tiến xa hơn, đạt đến những cởi mở tâm linh rộng lớn hơn. Tức là không chỉ dừng lại ở trị liệu, mà còn giúp tiếp tục thăng tiến. Trong trường hợp này, để cho người học tin tưởng, cần co nhãn hiệu khoa học, tức là được chỉ dạy bởi những bác sĩ hay chuyên gia về tâm thần, và được thử nghiệm trong các bệnh viện, hay trung tâm nghiên cứu danh tiếng.
- Vấn đề người học không có ý chí tập luyện chuyên cần (kinh nghiệm bản thân !) có thể được bù đắp bằng một sự theo dõi khuyến khích thường xuyên. Không thể nói với người thời đại :“tôi dạy cho anh, rồi anh về nhà tự luyện” (như trong chuyện kiếm hiệp). Phải có phòng tập, bắt họ đến nhiều lần mỗi tuần, và ngồi đó hướng dẫn họ từng bước. Đừng mong họ tự luyện tập ở nhà, ít ra là cho đến một trình độ nào đó.
- Điều quan trọng hơn nữa là rất nhiều người sẽ không chịu tìm đến một phương pháp tập luyện kiểu Thiền quán, hay môt phương pháp y khoa đến từ Phật Giáo, như vừa trình bày. Sở thích của họ ở chỗ khác. Vì thế, có nhu cầu bày ra nhiều con đường để người thời đại có thể đến với Phật Giáo (xin vẫn lấy thí dụ thiền quán). Võ thuật chẳng hạn, có thể đưa đến sự luyện tập tâm thần, cho sáng suốt, cho khỏe mạnh, cho can đảm, chống mệt mỏi v.v...Tại sao không giúp sự luyện tập ấy vượt qua những mục đích vừa kể, để “đi tới, đi tới mãi” ? Vả lại, phải chăng người học Võ vẫn thường coi Nguyên Tổ Đạt Ma của Thiền Tông cũng là Tổ Sư của họ ? Người ta cũng có thể đi đến Thiền Học bằng Khí Công. Muốn tập Khí Công, phải qua các giai đoạn điều thân, điều khí, tĩnh thần, giải trừ tạp niệm, thổ cố nạp tân v.v...không khác gì người tập Thiền. Quan điểm của riêng tôi là Khí Công phần nào tương ứng với sự áp dụng “Lục Diệu Pháp Môn” của Thiền Học ở các giai đoạn “Chỉ” và “Quán” (23)). Hiện rất nhiều người khoái tập Khí Công. Tại một số quốc gia Á Châu, Khí Công đang được đại chúng hóa, nhất là các môn “động công”. Nếu đặt Khí Công trong một tiến trình không chỉ dừng lại ở việc quán tưởng hơi thở và các kinh mạch trong thân thể, thì đó chính là một con đường để đi vào Phật Giáo, và là một cách để Phật Giáo đi đến đại chúng.
- Một vấn đề tế nhị là sự truyền thừa Phật Giáo đến tu sĩ và tín đồ của các tôn giáo khác. Như đã nói ở phần dẫn nhập, Phật Giáo có thể giúp ích cho những người này trong sự tu hành và sống thực niềm tin của họ. Trong trường hợp này, Phật Giáo phải được quan niệm đơn thuần dưới khía cạnh phương pháp. Tức là không có giáo điều, chỉ có phương pháp. Có thể nói : muốn tìm bất cứ gì, thì điều kiện tiên quyết là phải nhìn được cho rõ. Tìm Chúa cũng vậy. Nếu anh muốn tìm đến Chúa, mà tâm thần anh không yên ổn, cứ mãi giao động, như mặt ao bị khuấy đục, khiến sự thấy của anh không được rõ ràng, thì anh sẽ rất khó thấy Chúa. Khi đó, cùng với sự cầu nguyện để xin cho mình được sáng suốt, tức dùng tha lực, anh có thể mượn trong Phật Giáo những phương pháp để tự lực làm cho tâm hồn anh lắng xuống, để anh nhìn rõ hơn, tìm đến Chúa dễ dàng hơn...
o
Để kết thúc phần này,
tôi xin một lần nữa nhấn mạnh đến khía cạnh phương pháp trong Phật Giáo. Đức Phật đã nhiều lần từ chối bàn đến những vấn đề trừu tượng, để hướng vào thực tế. Thực tế, ở thời đại chúng ta, là giúp giải quyết các vấn đề thực tế của con người thời đại. Muốn thế, phải có những phương pháp để đến với họ, hay làm cho họ đến với Phật Giáo, và phải có những phương pháp để thực sự giúp họ thoát được phần nào những nỗi khổ của họ, mà ta có thể quy kết vào hai căn bệnh chính, là : lo lắng, và buồn chán.
Đi vạn dặm, là khó, bước một bước, là dễ. Nhưng muốn đi vạn dặm cũng phải bước từng bước. Cho nên, đừng quên : phương pháp hay, chính là phương pháp dễ thực hành.
(xem tiếp phần 4)
CHÚ THÍCH :
(19).Le Monde Diplomatique tháng 10/1992, trang 15.
(20).Rất nên đọc bài của Nhật Chiêu :“Tim hiêu thơ Hài Cú Nhật Bản” - Trăm Con - Canada - số 12 - 1993.
(21).Le Figaro 31/10/1989.
(22)"Questions a un Maitre Zen” - Taisen Deshimaru - Albin Michel - 1884.
(23).Lục Diệu Pháp Môn gồm : sổ tức, tùy tức, chỉ, quán , hoàn, tịnh. Khí Công tập trung tinh thần nơi một điểm trên thân thể (gọi là ý thủ, có thể ý thủ quan nguyên, mệnh môn, dũng tuyền, ấn đường, bách hội, v.v...), giống với giai đoạn “chỉ”, và quán tưởng khí huyết lưu hành theo một số kinh mạch (như “tiểu chu thiên"), hay quán tưởng hơi thở của mình thông với “khí” của Trời Đất, tương ứng với giai đoạn “quán” trong Lục Diệu Pháp Môn, nhưng hạn hẹp hơn.
(31).Có người đã ghi nhận chữ “mouni” trong Sanskrit, nguồn gốc của chữ "moine” trong tiếng Pháp, có nghĩa là người Tu Hành, rất gần với chữ “maouna” có nghĩa là im lặng.
|