Lịch sử là một sự dối trá mà không ai phủ nhận (Napoleon đệ nhất)

Vietnamese     Francais
Ý KIẾN
  Số người truy cập:
  Tổng số: 02351276
  Đang xem: 63
BÌNH LUẬN THI VĂN
Hoàng hạc lâu

Bốn câu đầu nói chuyện “người xưa”, và đập tan ngồi lầu Hoàng Hạc trước mặt. Bốn câu sau nói chuyện “người nay”, và cũng xóa nhòa cảnh vật rực rỡ đang nhìn. Ở trên thì “mây trắng mãi mãi bay”, ở dưới thì “màn chiều buông phủ”. Người xưa không còn nữa, quê hương cũng xa vời, nhưng mây trắng vẫn bay, màn chiều vẫn ngày ngày buông phủ ...  

Bài thơ rất nổi tiếng này của Thôi Hiệu, đời Đường (mất năm 754) gồm tám câu bảy chữ, như sau :  

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản  

Bạch vân thiên tải không du du

Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ  

Phương thảo thê thê Anh Vũ châu  

Nhật mộ hương quan hà xứ thị ?  

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Có rất nhiều bài dịch ra chữ nước ta, xin chọn ba bài :

Bài dịch của Tản Đà :  

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ

Hạc vàng đi mất từ xưa

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay

Hán Dương sông tạnh cây bày

Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ?

Bài dịch của Vũ Hoàng Chương :  

Xưa Hạc vàng bay vút bóng người

Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi

Vàng tung cánh hạc đi đi mãi

Trắng một màu mây vạn vạn đời

Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu

Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi

Gần xa chiều xuống đâu quê quán

Đừng dục cơn sầu nữa sóng ơi ! 

Bài dịch của Trần Văn Ân :  

Người xưa cỡi hạc đi đâu tá

Hoàng Hạc lâu nay vẫn còn đây

Một phút hạc vàng thăm thẳm biệt

Ngàn năm mây trắng lững lờ bay

Hán Dương cây tỏ sông quang tạnh

Anh Vũ bãi mờ cỏ mướt dầy

Chiều quạnh đâu là hương lý cũ

Trên sông khói sóng não lòng này.  

LÝ BẠCH VÀ PHÀM PHU :

Tương truyền thi hào Lý Bạch đến lầu Hoàng Hạc, thấy bài thơ của Thôi Hiêu ghi ở đây đã quá đầy đủ, không còn thêm gì được nữa, nên chỉ khiêm tốn nhắn lại rằng : 

                                              “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc 

                                                Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”  

                                            (Cảnh trước mặt, không thể nói ra được,  

                                             Vì Thôi Hiệu đã nói hết cả rồi trong bài thơ đề ở trên đầu) 

         Thật ra, không phải dễ gì nhìn thấy nổi cái “đã được nói hết” trong bài thơ, như Lý Bạch. Năm mươi sáu chữ trong bài của Thôi Hiệu làm sao tả hết nổi cảnh vật vô cùng phức tạp và đa dạng quanh lầu Hoàng Hạc ? Làm sao quả quyết được rằng bài thơ “đã nói hết ?” Nếu chỉ chấp ở cảnh vật, thì điều này quả thực là không thể hiểu nổi. Kẻ phàm phu chỉ biết đến cảnh, nên vẫn nghĩ Thôi Hiệu làm thơ vì mến mộ cảnh lầu Hoàng Hạc, vì say mê trước vẻ đẹp của bãi Anh Vũ, đất Hán Dương, chứ nào có biết đâu cái ý của ông là khinh rẻ lầu Hoàng Hạc, là chẳng hề rung động trước những cảnh đẹp kia ?  

          Và cũng vì chỉ biết đến cảnh, nên họ có thể không ngần ngại khổ công mài mực chấp bút, đề thêm hàng triệu bài thơ tán dương cảnh vật kia dưới mọi khía cạnh, những tưởng được đứng kề bên Thôi Hiệu ! Còn bậc Đại Trượng Phu thấy cảnh, biết ngay cái điều phải nói ra, mà người khác đã nói rồi, thì liền cúi đầu phục thiện. Quý lắm thay !   

 ĐẬP TAN LẦU HOÀNG HẠC !  

            Trong tám câu, Thôi Hiệu chỉ nói đến Lầu Hoàng Hạc có một lần, ở câu thứ hai. Đối với ông, Lầu Hoàng Hạc chỉ là cái dư thừa của cổ nhân, còn để lại sau khi đã khuất bóng. Người xưa đã cưỡi hạc bay đi, ngôi lầu này bất quá chỉ là cái thừa thãi còn lưu lại, cho bọn “rởm”, bọn “làm dáng”, tụ tập ở đó, để cùng nhau gật gù suýt soa, cho ra cái vẻ trí thức, sành điệu mà thôi ! Khinh Lầu Hoàng Hạc, cũng là khinh cái bọn “rởm” này vậy. 

            Kim Thánh Thán, khi phề bình hai câu đầu của bài Hoàng Hạc Lâu, có cho là Thôi Hiệu đã lấy ý nghĩa của một đoạn trong sách Trang Tử, như sau : 

  “Cái tôn quý chẳng thể truyền lại được của cổ nhân, thì đã mất rồi, còn những điều mà ngài đang đọc đây, chỉ là những cặn bã của cổ nhân đấy thôi !”  

(Thiên Đạo, lời Luân Biện nói với Tề Hoàn Công)

Lý Bạch cũng từng có ý đạp tan lầu Hoàng Hạc :  

  “Ngã thả vị quân chùy toái Hoàng Hạc Lâu” 

(Tôi cũng vì ngài mà đập tan lầu Hoàng Hạc) 

NGÀN NĂM MÂY TRẮNG LỮNG LỜ BAY :  

            Câu thứ ba của bài thơ có điểm rất đặc biệt, là dùng liên tiếp sáu chữ “trắc” trong một câu thơ bảy chữ, bất chấp luật bằng trắc. Bút pháp ấy khiến câu thơ mang một sức mạnh khác thường. Để làm gì ? Để nhấn mạnh rằng : người xưa đã đi mất rồi ! Không còn trở lại được nũa ! “Nhất khứ” là “một đi”, “bất phục phản” là “không trở lại”. Câu này nói lên cái lẽ Vô Thường của mọi người, mọi việc, kể cả những bậc Thánh Nhân. Đoạn trích ở trên trong sách Trang Tử cũng thế. 

            Câu thứ ba này đối với câu thứ tư : 

“Bạch vân thiên tải không du du"

(mây trắng ngàn năm vẫn mãi trôi) 

           Thánh Nhân đã mục nát, Khổng, Lão, Trang, đều đã về với cát bụi, nhưng, hãy ngửa mặt lên, hãy “nâng tâm hồn lên” (sursum corda !), thì sẽ thấy cái Đạo ẩn tàng trong đời sống của Thánh Nhân tự ngàn xưa, nay vẫn còn đó, như mây trắng kia, trải qua hàng ngàn năm mà vẫn còn mãi mãi nổi trôi, đời này sang đời khác, chẳng lúc nào ngưng. Đó là cái Thường Hằng, đối với lẽ Vô Thường của câu ba. Vậy, đừng gục đầu tôn sùng những cặn bã, những cành khô lá héo của Thánh Nhân còn lưu lại, mà hãy nhìn lên cái Đạo lớn luôn mãi trường tồn đã dẫn dắt bước chân của các Ngài. Hãy ngửng đầu lên, nhìn mây trắng, đám mây đã từng nâng đỡ cánh hạc của người xưa, nay vẫn còn đây, chứ đừng gục mặt tôn sùng ngôi Lầu Hoàng Hạc của bọn “rởm”. 

CHẲNG THÈM RUNG ĐỘNG TRƯỚC CẢNH HÁN DƯƠNG, ANH VŨ !  

          Hai câu năm và sáu, tả cảnh hàng cây trên bến Hán Dương nổi bật bên bờ sông quang tạnh, và bãi Anh Vũ, với cỏ thơm xum xuê tươi tốt. Tưởng rằng tác giả bồi hồi cảm mến cảnh đẹp ấy ư ? Không ! Ông chẳng coi chúng ra gì cả. Vì sao ?  

Vì (câu 7 :  

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị ?”  

(Chiều xuống đâu là quê quán cũ ?)  

          Thôi Hiệu thương nhớ quê hương mình, nên có xá gì “cây bến Hán Dương” với “cỏ bờ Anh Vũ” ? Điều mà ông mơ tưởng là quê hương ông, chứ nào có để tâm đến cảnh vật trước mắt ? Vì thế, ông nhìn cảnh rực rỡ tốt tươi ấy mà chỉ tự hỏi :“Đâu là quê quán cũ ?” (hương quan hà xứ thị ?)  

         Chữ “chiều xuống” (nhật mộ), được dùng ở đây chính là cái vừa hiện hữu nơi bến Hán Dương với bờ Anh Vũ, mà cũng hiện hữu nơi quê hương của tác giả, chẳng khác nào đám mây trắng nơi câu bốn, đã từng hiện hữu lúc người xưa cưỡi hạc bay đi, mà nay vẫn còn hiện hữu khi ta ngửa mặt nhìn trời. Mây trắng thường hằng trong thời gian, “nhật mộ” thường hằng trong không gian, cả hai đều đưa con người ra khỏi cảnh vật trước mắt ...  

        Nói cách khác, cây bến Hán Dương thì “rực rỡ” (lịch lịch), cỏ bờ Anh Vũ thì “tốt tươi” (thê thê), nhưng chúng vẫn mờ nhạt trong tâm hồn Thôi Hiệu, chẳng khác nào Lầu Hoàng Hạc đã nói ở trên. Như ông diễn bày trong câu kết :  

“Yên ba giang thượng sử nhân sầu” 

(Trên sông khói sóng não lòng này)  

          Khói sóng là gì ? nếu không phải là nỗi buồn nhớ quê của tác giả ? Chính khói sóng đã làm mờ đi cảnh vật trước mắt ông, khiến cho những cảnh “rực rỡ”, và “tốt tươi” kia, vẫn chẳng làm thỏa mãn tâm hồn ông, khiến ông vẫn tự hỏi :“hương quan hà xứ thị ?”  

         Khói sóng làm cho người buồn (sử nhân sầu), nhưng nỗi sầu đó, lại chính là khói sóng. Cái cao diệu ở chỗ đó.  

TÓM LẠI : 

           Bốn câu đầu nói chuyện “người xưa”, và đập tan ngồi lầu Hoàng Hạc trước mặt. Bốn câu sau nói chuyện “người nay”, và cũng xóa nhòa cảnh vật rực rỡ đang nhìn. Ở trên thì “mây trắng mãi mãi bay”, ở dưới thì “màn chiều buông phủ”. Người xưa không còn nữa, quê hương cũng xa vời, nhưng mây trắng vẫn bay, màn chiều vẫn ngày ngày buông phủ ...  

          Tựu chung, trong sự biến đổi, hoại diệt, vẫn có cái gì trường cửu, bất biến. Phải chăng ý thức cái trường cửu ấy, giúp ta thoát ra ngoài thực tại, và nhìn trở lại thực tại với một cái nhìn khác ?

  
NGUYỄN HOÀI VÂN 

28/6/1994

Các bài liên hệ :   Phượng Hoàng Đài

Long Trì 

Người gửi:  
Tiêu đề:  
Email:  
Ý kiến:  

CÁC BÀI KHÁC

Đăng Kim lăng Phượng Hoàng Đài
Hai bài thơ xuân của Đỗ Phủ
Lương châu từ
Một bài thơ của Paul Verlaine
Văn chương hạ giới
Trang hiện tại: 1   Chuyển tới   [1]   2   3   4   5   6   7   8   9   10  Kế tiếp
In trang Phản hồi Gửi mail cho bạn bè Đầu trang
BÀI MỚI NHẤT
° Dân chủ không tự do (démocratie illibérale)
° Người xưa tiễn bạn - Thơ Lý Bạch
° Thánh Kinh nguyên thủy không có ý niệm linh hồn
° Ý thức như cầu vòng : thực có hay ảo tưởng ? Keith Frankish
° Triết học Tinh Thần và hàng rào vật lý
° Tha nhân và hiện hữu - Merleau Ponty
° Một cách đúng nghĩa, không thể là phụ nữ
° A Di Đà là gì ?
° Vấn đề Kekule : Nguồn gốc của ngôn ngữ và vài suy nghĩ về vô thức - Theo Cormac Mc Carthy
° Caligula - Kịch của Camus
° Rơi ngã - Tiểu thuyết của Albert Camus
° Aliénation : từ Tha Hóa đến Vong Thân
° Giấc mơ của một người lố bịch - Dostoiesvki
° Hố sâu giữa các thế hệ
° Đỗ Phủ - Tào Tùng, với hai bài thơ phản chiến nhất của Đường Thi
° Hậu hiện đại là cái gì ?
° Hồng Thất Công trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
° Tin Ông già Noel ?
° Một bước tiến mới trong việc tổng hợp hạt nhân
° Triết học và lịch sử
° Thạch Hào Thôn - một trong những bài thơ cảm động nhất của Đỗ Phủ
° Ky Tô Giáo và Do Thái Giáo
° Ý Thức và vô thức trong triết học hiện đại
° Tiền lương được ấn định như thế nào ?
° Ý nghĩa huyền bí của bài kinh nhật tụng Công Giáo Kính Mừng Maria
Copyright by nguyenhoaivan.com - All right reserved.
Email: nghoaivan@wanadoo.fr