Lịch sử là một sự dối trá mà không ai phủ nhận (Napoleon đệ nhất)

Vietnamese     Francais
Ý KIẾN
  Số người truy cập:
  Tổng số: 02361037
  Đang xem: 39
BÌNH LUẬN THI VĂN
Hai bài thơ xuân của Đỗ Phủ

Cánh chim hôm nay quá trắng, đóa hoa hôm nay sao như rực cháy, vì sao ? Vì nước biếc núi xanh phía sau, hay vì "kim xuân khan hựu quá” (mùa xuân này đang lại sắp trôi qua) ?

Nhớ lại một mùa xuân, nhiều năm trước ...


            Mùa xuân năm 1996, chợt nhớ mình đã nhìn thấy hai mươi mùa xuân trên đất khách, tôi bất giác nghĩ đến hai bài thơ xuân của Đỗ Phủ, đọc từ lâu, đã quên gần hết, và lôi ra xem lại.

            Có lẽ cuộc đời Đỗ Phủ mang những nét mà tôi , và nhiều người Việt thời tôi, rất dễ dàng thâm cảm. Ông lớn lên và được dưỡng nuôi trong những hoài bão cao cả, những ước vọng to lớn. Tổ phụ ông là một danh tướng dời Tấn, thân phụ ông làm quan. Riêng ông, từ nhỏ đã nổi tiếng tài ba xuất chúng, và là kỳ vọng của nhiều bậc danh sĩ đương thời. Thiếu thời ông du lịch nhiều nơi, quan sát khắp chốn, hòa hợp với đời sống của muôn dân. Những tưởng ông sẽ được dịp thi thố tài năng, ra sức tế thế kinh bang cho trăm họ ấm no hạnh phúc, mà sự nghiệp ông cũng hiển vinh. Thế nhưng, khi ông chết ở chốn tha hương, năm 59 tuổi, ông vẫn nghèo đến độ gia đình không thể đem được linh cửu về quê. Từ thời điểm ấy, nhìn ngược lại cuộc đời ông, gần như lúc nào ta cũng chỉ thấy nghèo đói, thiếu thốn, và nhất là bôn ba tứ xứ, này đây mai đó nơi đất khách quê người để trốn chạy cảnh chiến tranh loạn lạc. Ông cũng có thời làm quan, nhưng con đường quan quyền lúc ấy quả là quá chật hẹp đối với con người ông. Vua thì thấp kém, đồng liêu toàn một bọn ganh tỵ nhỏ nhen, ông phải nhiều lần lui về dân dã, sống cảnh thanh bần.

            Có những người từ quan mà an nhàn sung sướng. Đỗ Phủ từ quan để về sông với những cơ cực khốn khổ nhất của người dân. Năm 39 tuổi, con nhỏ của ông bị chết đói ở Thiểm Tây trong khi ông sống cực kỳ nghèo khổ nơi kinh thành. Không có cơn giặc giã loạn lạc nào mà không làm cho ông phải khốn đốn điêu linh, như mọi người dân bần cùng khác. Cũng như họ, ông nhiều lần tất tưởi tay sách tay mang lên đường chạy loạn, tỵ nạn hết nơi này đến chốn khác. Cũng như họ, ông phải chịu sự sách nhiễu của bọn quan quân gian ác. Rồi cũng như họ, ông phải nếm mùi đói rét, bệnh tật, phủ trùm lên nỗi buồn thương nhớ quê hương, hoài tưởng những người thân yêu cách biệt...

            Rồi khi mùa xuân đến, ông nhìn cảnh xuân, tự hỏi tấm lòng tha hương của mình, mà làm nên những vần thơ đi thẳng vào tâm hồn ta. Tôi muốn chia sẻ với bạn đọc những cảm súc ấy, nhân mùa xuân 1996, kỷ niệm hai mươi mùa xuân tỵ nạn...

                Đầu tiên là bài XUÂN VỌNG :

Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời hoa tiễn lệ
Hận biệt điểu kinh tâm
Phong hỏa liên tam nguyệt
Gia thư để vạn câm (*)
Bạch đầu tao cánh đoản
Hồn dục bất thăng trâm.

 (*) Chữ “kim” ở đây đọc là “câm” cho hợp vận.

 Dịch nghĩa : NGẮM CẢNH XUÂN

Quốc gia tuy tan nát, nhưng sông núi vẫn còn
Trong thành phố mùa xuân, cỏ cây rậm rạp
Cảm động trước thời thế ấy, hoa rơi nước mắt
Thương hận cảnh biệt ly kia, lòng chim rung động
Suốt ba tháng liền gió lửa
Nhận được thư nhà, quý như vạn lượng vàng
Vuốt tóc bạc, thấy càng thêm ngắn
Tóc lởm chởm, trâm cài mãi không xong.

Bản dịch của cụ Trần Văn Ân (Côn Sơn 1959) :  

 TRÔNG XUÂN

Nước nát còn non sông
Cỏ cây xuân mướt cùng
Sầu tang hoa nhỏ lệ
Hận biệt điểu kinh lòng
Khói lửa ròng ba tháng
Thư nhà giá vạn đồng
Bạc đầu thêm tóc ngắn
Búi mãi vẫn không xong

 Mỗi người Việt đều mang trong ký ức của mình hình ảnh những mùa xuân khói lửa. Riêng tôi, bài thơ này gợi nhớ Tết Mậu Thân 1968 :

            ...Mới hôm trước nhà đầy khách, tưng bừng đón Tết. Mãi đến tối mịt, ai mới về nhà nấy, lòng còn nhộn nhịp tươi vui. Trong đêm, tiếng súng nổ xa xa tựa hồ tiếng pháo, nhưng càng ngày càng gần, rồi tiếng đạn rít trong phòng ngủ, tiếng cửa kính vỡ tan...Cả nhà nằm bẹp dưới đất. Chuyện gì xảy ra ? Sáng hôm sau, nhà hàng xóm phía sau bị trúng đạn pháo kích xập hoàn toàn. Không biết ai chết ai bị thương ? Trong nhà đầy vết đạn, có cả lỗ đạn nơi đầu giường. Những người thân thương hôm qua còn đầy đủ nơi đây, nay đã ra sao ? Gia đình mình có phải lên đường chạy loạn hay không ? Ngôi chùa kế bên, người ta chạy về, chẳng lẽ mình lại chạy đi ? Chiều đến, chùa vắng tanh, lối xóm đã đi hết. Chúng tôi kẹt lại trong vùng giao chiến. Các “người anh em bên kia” chiếm ngôi chùa. Một anh đặt súng máy trên bờ tường sát nhà, ngồi ngất nghểu. Mẹ tôi nhân lúc yên tĩnh ra ngoài sân đi bách bộ, đọc kinh. “Người anh em” bắt gặp, ngạc nhiên bảo phải quay vào nhà, nhưng rồi lại lân la gợi chuyện. Anh tưởng “nhân dân” đã nổi dậy đâu đó xong xuôi, anh chỉ cần vào tiếp thu thành phố ! Anh không hiểu nổi vì sao vẫn còn “Mỹ Ngụy” ở phía trước bắn lại anh dữ dội ? Qua vài câu trao đổi, chỉ thấy anh là người thật thà, dễ mến. Trong đêm dài súng đại liên của anh nổ giòn tan và trải những hàng lửa dài trên nền đen của bầu trời, tranh sáng với ánh hỏa châu. Vài ngày sau, ngôi chùa lại bị bỏ trống. Cả khu phố không còn một ai, không còn “quân thù”, chưa thấy “quân bạn” ... Ngoài ngõ chỉ có hai đống chi đó thật to. Tôi ngạc nhiên khi được biết đó là hai xác chết đã trương phình như hai con bò. “Người anh em” của đêm trước chăng ? Tôi không tưởng tượng nổi xác chết có thể phình to như vậy. Năm ấy tôi 12 tuổi.

            Nhìn ra khu vườn trước nhà, cây cỏ vẫn xanh tươi, các khóm hoa của nhà chen xuân ganh sắc với những chậu hoa khách vừa đem biếu cách đó vài hôm. Hoa nhỏ lệ chăng ? Nếu tâm hồn còn chút bình tĩnh, thì có thể thấy những hạt sương sớm đọng trên cánh hoa. Như mọi buổi sáng. Nhưng buổi sáng hôm ấy, những giọt sương sớm đã trở thành giọt lệ ... Hoa khóc, hay lòng người sầu thảm ? Lắng tâm hồn, ta vẫn nghe chim hót. Nhưng tiếng hót sáng nay không phải để đón chào bình minh, mà là tiếng kêu kinh hãi, thương tâm...

            Bốn câu đầu của bài thơ diễn tả ý nghĩa thiên nhiên vẫn mãi tồn tại, mặc dù những cảnh chết chóc điêu linh do con người gây ra. Quốc gia là gì ? Phải chăng chỉ là một trong vô số tham vọng kiêu căng vô bờ bến của con người ? Quốc gia rồi cũng nát tan, nhưng sông núi, cỏ cây, hoa lá, vẫn còn đây. Thật ra, điều quan trọng nhất đối với chúng ta, là con người cũng vẫn còn đây, cùng với núi sông, cây cỏ, với những khóm hoa đua sắc, và với chim muông cầm thú trong Thiên Nhiên. Nói “hoa thương cảm mà nhỏ lệ” hay “lòng chim rung động” cũng chính là cảm thấy rằng Thiên Nhiên thông cảm với con người, rằng qua sự yêu thương, tấm lòng của Đất Trời hòa chung làm một với tâm hồn ta. Ý thức được điều đó, là ý thức được rằng “ta sẽ không bao giờ mất đi, Tâm ta làm một với Đất Trời, nên ngày nào Đất Trời còn thì ta cũng sẽ mãi mãi tồn tại với Đất Trời, vạn vật, Thiên Nhiên”...

            “Sơn hà” chẳng phải ai khác mà chính là ta. “Thảo mộc thâm”, “hoa tiễn lệ”, với “điểu kinh tâm” cũng vậy mà thôi. Tất cả những thứ đó, gắn liền vào chữ “tại” (còn mãi) nơi câu đầu, bằng một chất keo vô cùng mầu nhiệm, đó là TÌNH THƯƠNG, dẫn đến CẢM THÔNG VÀ HỢP NHẤT.

            Sau khi đã diễn đạt cái tình trong cảnh, Đỗ Phủ dùng bốn câu sau của bài thơ để nói lên cảnh trong tình.

            Cảnh đây là “suốt ba tháng liền khói lửa”, mong tin gia đình, nên nhận được lá thư nhà thì quý hơn ngàn vàng. Chỉ cần nói cảnh, không đả động đến tình, vì cái tình của cảnh ấy, ai nghe qua mà lại chẳng lập tức cảm thông ? Đó là tránh cái lối rên rỉ ỉ ôi của bọn tầm thường vậy.

            Cảnh đây nữa là :“ông già bạc đầu, tóc lởm chởm, vuốt mãi mà vẫn không cài nổi cây trâm để búi lại dược”. Ở đây cũng vậy. Ta chẳng cần phải tìm hiểu ông già do loạn lạc nên suy dinh dưỡng bị rụng tóc, hay tuổi cao vụng về run rẩy không cài được trâm, hay bấy lâu sống trong cảnh điêu linh, không còn đầu óc nào nghĩ đến trâm cài giải mũ nữa, nên mặc cho tóc mọc lởm chởm, hoặc giả chạy loạn lâu ngày đã quên cả những động tác ấy, hay vì nhận được thư nhà nên mừng quá, búi tóc cũng không xong, hay gì khác nữa ? Chúng ta chỉ cần hình dung ông lão loay hoay mãi mà cài tóc vẫn không được. Và tất cả cái tình của ta đối với ông lão sẽ tự nhiên hiển lộ ra, trong tâm hồn ta, trong “hoa”, trong “điểu”, trong “thảo mộc” trong “sơn hà”...

 x
x      x

 Bài thơ xuân thứ hai của Đỗ Phủ mà tôi muốn chia sẻ với bạn đọc là bài TUYỆT CÚ :

Giang bích điểu du bạch
Son thanh hoa dục nhiên
Kim xuân khan hựu quá
Hà nhật phục quy niên ?


Dịch nghĩa :
Màu nước biếc của mặt sông khiến cánh chim càng
thêm trắng
Nền xanh của núi khiến sắc hoa càng thêm rực rỡ
như ngọn lửa muốn cháy bùng lên
Nhìn mua xuân này lại sắp trôi qua
Tự hỏi : ngày nào sẽ đến năm ta trở về ?

           Loại thơ năm chữ bốn câu này rất súc tích, và cũng rất mạnh mẽ, gần với thơ Hài Cú của Nhật. Thường người ta dựa vào một cảnh trí độc đáo, hay đúng hơn là một lối nhìn độc đáo về một cảnh trí, rồi dồn tất cả cái tình cảm mà người ta muốn diễn đạt vào câu cuối.

            Ở đây, Đỗ Phủ nhìn cánh chim trắng, đặc biệt trắng, vì được đặt trên màu nước biếc của mặt sông. Người thường đặt cánh chim trên nền trời. Tiên sinh lại lấy nước sông làm nền. Tức là phải ở trên cao, có lẽ trên triền núi, và phải đứng trước cảnh nước rộng, sông dài, cũng như trước một tình cảm bao la...

            Đỗ Phủ trông hoa mà tưởng chừng như hoa sắp rực cháy lên, cũng vì cái nền xanh của núi quá đỗi xanh, khiến màu sắc của hoa vô cùng nổi bật. Nếu Đỗ Phủ ở trên cao mà ngắm cánh chim trên nền sông xanh biếc như ta đã nghi ngờ qua câu trên, thì hình ảnh hoa nở trên núi ấy chắc là phải gần với chỗ ông đang ngắm cảnh hơn là cánh chim. Ta không lạ gì bút pháp này : người thi sĩ tả cảnh ở xa trước, rồi mới từ từ nhích lại chỗ mình, tả những cảnh vật ở gần mình hơn, để rồi đi vào trong chính nội tâm của mình.

            Thật vậy, khung cảnh nội tâm ông lúc ấy được phơi bày với hai câu kế tiếp. Đầu tiên là nhận xét mùa xuân mà ông đang chứng kiến lại đang trôi đi, như giòng sông dưới chân núi kia. Và trước giòng thời gian trôi ấy, ông tự hỏi : “ngày nào mới đến năm ta trở về ?” Xin nhận xét : mốc thời gian vẫn là ngày, nhưng đơn vị đo lường thời gian của Đỗ Phủ là năm. Điều này cho biết cuộc lưu lạc của ông kéo dài đã nhiều năm.

            Cánh chim hôm nay quá trắng, đóa hoa hôm nay sao như rực cháy, vì sao ? Vì có nước biếc núi xanh làm nền, hay vì “kim xuân khan hựu quá” (mùa xuân này đang lại sắp trôi qua) ? Xuân mới vừa chớm nở, nay chợt thấy nó lại đã sắp qua đi rồi. Làm sao mà lòng chẳng xốn xang ? Làm sao cho tâm hồn không khắc khoải, không nóng nảy “rực cháy” như đóa hoa kia ? Và với tấm lòng ấy, làm sao cảnh vật lại có thể không bất thần đổi khác ? Husserl mà đọc bài thơ này, chắc sẽ không khỏi ca ngợi Đỗ Phủ là nhà hiện tượng học trước ông 12 thế kỷ !

            “Ngày nào mới đến năm ta trở về” ? Đã hai mươi mùa xuân rồi, và xuân này lại đang trôi qua. Riêng tôi vẫn chưa trở về. Và ngày càng qua đi thì quê hương lại càng xa lạ. Một ngày kia, ta sẽ là khách du lịch trên chính đất nước của mình. Người thân còn đó, nhưng còn đến bao giờ ? Bổn phận chưa làm được mảy may, mà đã hai mươi mùa xuân trôi...

            Mai này, ta nhìn ra cửa sổ, nâng cánh thư nhà, vuốt mái tóc bạc, có thấy cánh chim đổi sắc, đóa hoa biến màu ?

 
NGUYỄN HOÀI VÂN
Bính Tý (1996)

Người gửi:  
Tiêu đề:  
Email:  
Ý kiến:  

CÁC BÀI KHÁC

Đăng Kim lăng Phượng Hoàng Đài
Hoàng hạc lâu
Lương châu từ
Một bài thơ của Paul Verlaine
Văn chương hạ giới
Trang hiện tại: 1   Chuyển tới   [1]   2   3   4   5   6   7   8   9   10  Kế tiếp
In trang Phản hồi Gửi mail cho bạn bè Đầu trang
BÀI MỚI NHẤT
° Đối đầu giữa Locke và Leibnitz - Duy nghiệm và Duy lý
° Hàng hóa và giá cả - Marx
° Hữu thể thì hiện hữu, còn Vô thể thì tuyệt nhiên không ?
° Cảm Nhận, Biết, Hiểu, Cảm Xúc và Trực Giác trong tinh thần chính danh
° Dân chủ không tự do (démocratie illibérale)
° Người xưa tiễn bạn - Thơ Lý Bạch
° Thánh Kinh nguyên thủy không có ý niệm linh hồn
° Ý thức như cầu vòng : thực có hay ảo tưởng ? Keith Frankish
° Triết học Tinh Thần và hàng rào vật lý
° Tha nhân và hiện hữu - Merleau Ponty
° Một cách đúng nghĩa, không thể là phụ nữ
° A Di Đà là gì ?
° Vấn đề Kekule : Nguồn gốc của ngôn ngữ và vài suy nghĩ về vô thức - Theo Cormac Mc Carthy
° Caligula - Kịch của Camus
° Rơi ngã - Tiểu thuyết của Albert Camus
° Aliénation : từ Tha Hóa đến Vong Thân
° Giấc mơ của một người lố bịch - Dostoiesvki
° Hố sâu giữa các thế hệ
° Đỗ Phủ - Tào Tùng, với hai bài thơ phản chiến nhất của Đường Thi
° Hậu hiện đại là cái gì ?
° Hồng Thất Công trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
° Tin Ông già Noel ?
° Một bước tiến mới trong việc tổng hợp hạt nhân
° Triết học và lịch sử
° Thạch Hào Thôn - một trong những bài thơ cảm động nhất của Đỗ Phủ
Copyright by nguyenhoaivan.com - All right reserved.
Email: nghoaivan@wanadoo.fr