Đọc phần Thụy Sĩ
Hai lần vào Pháp, tôi đều nhập cảnh lậu. Tình cảm của tôi với nước Pháp là một mối tình “bất hợp pháp”, một mối tình vụng trộm, nhưng kéo dài ...
-MỘT -
Lần đầu vuợt biên lậu vào Pháp, tôi đang ở Thụy Sĩ được khoảng hơn một tháng, mượn thông hành một người bạn, để đến Roubaix, vùng bắc Pháp. Roubaix là một tỉnh nhỏ chuyên nghề dệt. Lãnh vực này vào lúc ấy đã bắt đầu khủng hoảng nặng vì sự cạnh tranh của các nước Á Châu, nên tầm vóc kinh tế của Roubaix, vốn đã khiêm tốn, lại càng sa sút. Ở đây có nhiều người ngoại quốc, Ả Rập, Bắc Phi, Phi Châu da đen, và những người di dân cũ, đã từ nhiều thập niên, đến từ Ba Lan, Nga v.v...Thời gian ở Roubaix, tôi nằm nhà nhiều hơn ra đường (vì một nguyên do...bí mật), nên chẳng thăm viếng gì nhiều, mà thật ra, cũng chẳng có gì để thăm viếng. Một lần, tôi đến Lille, thủ phủ vùng ấy, đi chơi một vòng, cũng thú vị.
Lille có nghĩa là “hòn đảo”, là một thành phố nằm giữa những nhánh của sông Deule, cách Paris hơn 200 cây số. Từ thời Trung Cổ, thành phố này đã là một trung tâm của kỹ nghệ dệt, một trong những mấu chốt tiên khởi của cái mà người ta sẽ gọi là “mô hình tư bản”. Có lẽ vì thế mà Lille cũng là một trung tâm quan trọng của phong trào đấu tranh giai cấp. Chính tại đây mà “Quốc Tế Ca” đã được sáng tác và được hát lên lần đầu tiên. Mặc dù truyền thống thiên tả cố cựu, Lille cũng đã sản xuất ra được một lãnh tụ hữu khuynh nổi tiếng. Đó là Charles de Gaulle, người sĩ quan quý tộc kiêu kỳ đã có công biến nước Pháp từ một nước chiến bại thành một nước thắng trận trong đệ nhị thế chiến, nhưng cũng chính là đối thủ chính yếu của mọi thành phần tả phái. Sau cuộc khủng hoảng năm 1968, qua một cuộc trưng cầu dân ý, người Pháp đã mời ông về vườn tương tự như người Anh đã từng “sa thải” Churchill. Lille cũng là một thành phố đã phải trải qua nhiều cơn binh biến. Thành phố không còn nhiều di tích, vì những tàn phá của chiến tranh. Ngày nay, Lille được chỉnh trang thành một trung tâm kinh tế sinh động, thậm chí đã nộp đơn để được đứng ra tổ chức thế vận hội...
Người dân miền Bắc Pháp sống trong thời tiết âm u giá lạnh, nhưng thường tính tình lại rất nồng nhiệt, cũng như người nước Bỉ gần sát bên. Những ngày ở miền bắc Pháp là những ngày rất vui trong cuộc đời tôi.
-HAI -
Miền Bắc Pháp cùng với miền nam của Bỉ quốc hiện thời cũng chính là cái nôi lịch sử của nước Pháp, vì là đất dựng nghiệp của “tiên vương” triều đại lập quốc nước này, tức Vua Clovis, triều đại Mérovingien. Clovis cũng là một đề tài thời sự khi, cách đây một năm, người ta mừng lễ kỷ niệm 1500 năm ông này chịu phép rửa tội, thần phục cùng một lúc Giáo Hội Công Giáo và “truyền thống La Mã”. Vì thế, không ai ngạc nhiên khi nhân vật chủ trì cuộc kỷ niệm trọng thể này chính là Đức Gioan Phaolồ đệ nhị, vị đương kim Giáo Chủ Công Giáo đồng thời cũng là người thừa kế cuối cùng còn tại quyền của đế quốc La Mã. Lễ kỷ niệm trên đã gợi lên nhiều sinh hoạt trí thức lý thú, đặc biệt về vai trò của Clovis trong sự hình thành Âu Châu cũng như trong sự hiện hữu của Giáo Hội Công Giáo ở trạng thái hiện thời. Vì tầm quan trọng của việc ấy, nên tôi đề nghị chúng ta cùng đi sâu vào truyện Clovis, hay câu chuyện lập quốc của cái nước Đại Phú Lang Sa này :
Tôi mời bạn cùng tôi trở lại thời xa xưa, 12 thế kỷ trước Công Nguyên, khi mà trên đất Pháp hiện nay người Celtes (một loại người Ấn Âu) lan đến chiếm đóng, và lập nên những bộ lạc trải khắp phần lớn Tây Âu, bao gồm cả Anh quốc và Ái Nhĩ Lan hiện nay. Hàng năm, ở Lorient, gần chỗ tôi sinh sống, vẫn có ba hay bốn ngày hội lớn quy tụ các đại biểu của truyền thống Celte, đến từ những vùng của Âu Châu còn giữ truyền thống này, với các ban nhạc, ca sĩ, đoàn vũ, thi sĩ, văn sĩ, sử gia v.v... Đại Hội này rất nhộn nhịp, hào hứng. Trong ngày, các màn biểu diễn nhạc, vũ, trong những trang phục cổ truyền được trình diễn khắp đường phố. Về đêm còn có thêm khiêu vũ và đại nhạc hội với các nghệ sĩ tài danh.
Chữ Celte cũng là Celtae trong tiếng La Tinh, trở thành Galatae và Galli, cho ra chữ Gaule và Gaulois, một chữ mà thế hệ cha anh chúng ta đã biết rất rõ. Thật vậy, thực dân Pháp khi chiếm đóng nước ta, thường dạy trẻ em Việt Nam học rằng : tổ phụ “chúng ta” là người Gaulois (nos ancêtres sont des Gaulois) !!! Người Gaulois là một thành phần của đại gia đình Celte. Họ từng đánh phá La Mã vào năm 390 trước Công Nguyên. Có lẽ vì thế mà vào một lúc nào đó có người La Mã đã phải nói :“chiến đấu chống lại các dân tộc khác là để tranh thủ vinh quang chiến thắng, còn chiến đấu chống lại người Gaulois, là một vấn đề sống còn” (Saluste; Jugurtha, 114). Mặc dù vậy, đế quốc La Mã, với các đoàn Lê Dương chỉ huy bởi Jules César (mỗi “lê dương” - légion - gồm 6000 quân) chỉ mất có 8 năm để chiếm đóng và “bình định” lãnh thổ Gaulois, trong khi phải mất đến hai thế kỷ để chiếm Tây Ban Nha, và, sau đó, mất 210 năm để chinh phục xứ sở của người Germains (Đức). Số là người Gaulois có một đặc điểm khiến cho người ta có thể ngờ vực rằng họ có thể có liên hệ huyết thống với người Đại Nam ta (dù có lẽ chưa đến nỗi làm được tới “tổ phụ” chúng ta !). Đặc điểm đó là : hay chia rẽ, chống phá lẫn nhau... Florus cũng có những lời miệt thị đối với người Gaulois như sau :“khi đụng độ lần đầu họ vượt hơn hẳn những trang hảo hán, đụng độ lần thứ hai, họ kém cả phường nhi nữ ... thân thể họ, như tuyết trên núi, chảy dần trong mồ hôi của chiến trận”. Tacite cũng gắn liền dòng máu Gaulois với sự mền yếu (La Germanie; XXVIII). Bị chinh phục bởi La Mã, người gaulois trở thành Gallo-Romain, sống theo tập tục La Mã.
Clovis, “tiên vương” lập quốc của nước Pháp, thuộc một bộ tộc Germain, gọi là Franc, di dân đến định cư ở miền nam nước Bỉ hiện thời. Vào đầu thế kỷ thứ năm, người Franc lan đến phía Bắc của vùng lòng chảo Paris. Cùng lúc đó, các bộ tộc germains khác cũng bành trướng lãnh thổ của họ đến những vùng đất đã được bình định và “khai hóa” bởi đế quốc La Mã. Cần hiểu chữ germain có nghĩa là “chiến binh” (war man - homme de guerre,"w” trở thành “g” như William trở thành Guillaume, war trở thành guerre). Như thế đủ hiểu người Germain rất thiện chiến, và hiếu chiến, không những đối với những ai muốn khuất phục họ (La Mã) mà cả giữa các bộ tộc của họ với nhau. Người Germains, như người Celte (và Gaulois), cũng là một chi nhánh của đại gia đình Ấn Âu.
Thế nhưng đế quốc La Mã làm gì mà để bọn “mọi rợ” hoành hành trong những vùng đất mà mình đã chiếm đóng như thế ? Xin thưa : đế quốc đang trên đà suy thoái, bị chia hai từ năm 395, với một mảnh ở phương Tây, kinh đô là Ravennes, và một mảnh ở phương đông, kinh đô là Constantinople, thành phố mang tên “bác” Constantin. Ông này là vị Hoàng Đế (306-337) đã dựng Công Giáo thành quốc giáo, và đã có công thống nhất tín lý của các nhóm Ky Tô Hữu thời ấy trong một hệ thống giáo điều được quy định phần lớn bởi Công Đồng Nicée năm 325. Ở vào thế kỷ thứ năm, Đế quốc dù đang suy tàn vẫn còn khả năng ảnh hưởng vào việc chính trị Âu Châu qua những thủ đoạn tinh vi. Đàn anh La Mã tìm cách sử dụng những bộ tộc “man di” có trình độ “La Mã hóa” cao nhất để ngăn chống các bộ tộc germains khác. Thí dụ như họ dùng người Burgondes, ở vùng Savoie, đông nam nước Pháp (Grenoble, Genève, Lyon, Besancon bây giờ), để bảo vệ các đường sơn lộ băng qua núi Alpes dẫn đến La Mã. Vua Burgonde lúc đó có chút vấn đề trong gia đình mình, đặc biệt là việc một bà em dâu ngoại tình. Theo truyền thống của bộ tộc mình, ông cột vào cổ bà này một tảng đá và mời bà đi tắm sông... Con gái bà là Clotilde bị đày sang Genève, và trở thành vô cùng thù hận chính dân tộc mình. Clotilde lấy Clovis, vua bộ tộc Franc, với ý chí phục thù và khát vọng quyền lực mạnh mẽ.
“Rợ” Franc của Clovis cũng được người La Mã và người Gallo-Romain ở vùng Paris “khai hóa” để giúp họ chống lại áp lực của những bộ tộc Germains chung quanh. Ngặt một nỗi là Clovis, cùng với bộ tộc của ông theo tôn giáo truyền thống của dân mình (một loại đa thần giáo), chứ không phải là người Công Giáo. Clotilde, vợ mới cưới của Clovis, thì là người Công Giáo. Bà bắt Clovis bỏ lệ đa thê, và thuyết phục ông theo đạo của mình. Một người đàn bà khác cũng cố làm mọi cách để Clovis theo Công Giáo, đó là Geneviève, chủ tịch Hội Đồng Thành Phố Paris. Bà là người cương nghị, lỗi lạc, từng cứu Paris thoát khỏi những phen hiểm nguy cực kỳ, ít nhất là hai lần (một lần trước sự tấn công của các đoàn quân Mông Cổ). Geneviève hiện là thánh “quan thày” của binh chủng “lính sen đầm” tức gendarmerie nationale, một loại công an của Đại Pháp. Bà mang hai dòng máu, thân phụ là người Franc, nên bà có liên hệ huyết thống với một số thủ lãnh Francs, và nhờ đó ảnh hưởng được nhiều đến Clovis. Tuy nhiên, Clovis vẫn không chịu cải đạo. Clotilde phải nhờ Giám Mục Rémi chiêu dụ Clovis trong những cuộc gặp gỡ bí mật, vì sợ dân Franc biết được, sẽ nổi loạn. Clovis do dự, và sự do dự này đã kéo dài bảy năm...
Thật ra, sự do dự của Clovis còn nằm ở chỗ nên theo phái Công Giáo nào ? Lý do vì Công Giáo lúc ấy, sau khi đã đè bẹp nhiều “dị giáo” Ky Tô, lại chia làm hai phái lớn : phái Arius, và phái tạm gọi là Nicée, vì chấp nhận những tín điều được truyền dạy bởi Công Đồng Nicée năm 325. Arius, vào đầu thế kỷ thứ 4, là một linh mục người Lybie, bị lưu đày vì bất đồng ý kiến với “thượng cấp”, nhưng lại ảnh hưởng được đến phần lớn các bộ tộc Germains cải đạo theo Công Giáo. Ông chủ trương đức Ky Tô, tức “Chúa Con” hay “Ngôi Con”, được tạo thành bởi “Chúa Cha”, và như thế, không thể bình đẳng và đồng bản tính (homoousios) với “Chúa Cha” được. Tín điều Nicée thì cho rằng Đức Ky Tô, tức “Chúa Con” được “sinh ra mà không phải tạo thành” (Kinh Tin Kính), bình đẳng và đồng bản thể với Chúa Cha. Thuyết Arius đưa đến một mô hình tổ chức chính trị trong đó Vua (tương đương với Chúa Cha) nắm mọi quyền hành : quân sự, hành chánh và tôn giáo, cụ thể là các vị giáo quyền phải phục tòng nhà Vua. Điều này thể hiện rõ ràng trong thái độ của Théodoric, vua bộ tộc Ostrogoth (Ostro là phương đông, Ostrogoth là người goth ở phương đông). Sau khi đánh chiếm nước Ý và được Hoàng Đế La Mã Anasthase ở Constantinople phong làm “Phó Hoàng Đế” thay mặt mình cai quản Tây Phương, Théodoric cho đòi hai vị Giáo Hoàng đang tranh chấp lẫn nhau kịch liệt là Simmaque và Laurent đến kinh đô Ravennes để phân định xem vị nào mới thật sự xứng đáng ở ngôi Giáo Hoàng ! Ông chứng tỏ cho mọi người thấy quyền uy của nhà Vua ở trên uy lực của Giáo Quyền. Théodoric theo Công Giáo của Arius, như đại đa số người Germains Công Giáo. Cần nói là thuyết Arius sau khi bị kết án lạc giáo, đã được Công Đồng Rimini và Séleucie thừa nhận năm 359 như tín lý chính thống của đế quốc, với sự ủng hộ của Hoàng Đế Constance đệ nhị và Giáo Chủ Đông Phương Eusèbe (tương đương với Giáo Hoàng ở La Mã). Với những tín đồ Germains đang đánh chiếm gần như toàn thể Âu Châu, phái Arius được coi như đang thắng thế mạnh mẽ.
Clotilde cũng như Geneviève đều theo phái Nicée. Có lẽ Clovis đã rất muốn cãi lại “lệnh bà” để theo phái Công Giáo Arius, như các vua Germains đồng chủng khác, và như một số người trong chính gia đình ông kể cả người chị ruột. Nhưng ông do dự. Có lẽ ông thấy tương lai của mình trong phái Arius không có gì sáng lạn lắm, bất quá chỉ là một vua Germains trong số nhiều vua Germains khác, chẳng hơn được ai, còn có phần thua thiên hạ. Có nhiều hy vọng chính Clotilde, và nhất là Geneviève, đã đem đến cho Clovis nhận thức này. Thật vậy, Clovis không phải là một vị Vua hùng mạnh với những chiến công lừng lẫy như người ta thường tưởng tượng. Ông bị đánh bại nhiều lần, và từng trải qua những cuộc khủng hoảng trầm trọng, nhiều lần suýt bị chính quân đội của mình lật đổ hay ám sát, vì họ không chịu nổi một ông vua bại trận... Rốt cuộc Clovis chấp nhận rửa tội theo Công Giáo, phái Nicée, như Clotilde và Geneviève, hai người đàn bà dã ảnh hưởng mạnh mẽ trên cuộc đời ông. Ông mua chuộc các tướng tá thân cận và “biệt đoàn phòng vệ” của ông để họ chịu phép rửa tội cùng ngày với ông, khiến họ không thể viện cớ làm phản. Giám Mục Rémi cử hành nghi lễ này vào ngày Giáng Sinh, để đánh dấu một kỷ nguyên mới, ngày vị Vua Germain đầu tiên theo phái Nicée.
Thêm vào đó, một thay đổi quan trọng khác diễn ra trên bàn cờ chính trị Âu Châu. Théodoric, vị “phó Hoàng Đế” La Mã Tây Phương, thay quyền Hoàng Đế Đông Phương Anasthase nối tiếp truyền thống của Đế Quốc ở Phương Tây, một ngày nọ quyết định đem quân đến vùng Trung Âu, trên bờ Danube, để đòi một số đất đai mà ông cho là sở hữu của bộ tộc ông. Hoàng Đế Anasthase lấy làm lo sợ vì nghi ngờ anh đồng minh (và đàn em) Théodoric có ý sửa soạn thôn tính mình. Anasthase liền chiêu dụ Clovis, đối thủ duy nhất khả dĩ có thể tạo áp lực trên Théodoric ở phía tây, khiến ông này khó mà tấn công được bên Đông phương. Clovis được phong làm “phó Hoàng Đế” Toàn Quyền, đại diện Hoàng Đế Anasthase ở Tây Phương, tức là những chức vụ đã được phong tặng cho Théodoric. Nhờ Anasthase cầm chân một phần quân Ostrogoth của Theodoric ở phía đông, đồng thời nhờ sự giúp sức của những người Gallo-Romains theo phái Nicée như mình, mà Clovis đánh bại được một bộ tộc Goths khác, người Wisigoths (Goths phương Tây - Wisi = West), ở Vouillé, gần tỉnh Poitiers. Thừa thắng xông lên Clovis đánh bại những bộ tộc khác, trong đó có người Burgondes, bộ tộc của vợ ông, và bành trướng lãnh thổ đến gần như toàn thể nước Pháp bây giờ cộng thêm vùng đông nam nước Đức. Ông lập nên một vương quốc hùng mạnh, thịnh vượng, và thần phục Giáo Hội Công Giáo trung thành với tín lý Nicée. Để quyền hành đừng vuột khỏi tay các con mình, Clovis giết các công thần và cả các thủ lãnh trong chính gia đình mình, cậu, chú, anh em họ v.v... Sau này, khi Clovis đã qua đời nhiều năm, hoàng hậu Clotilde, cũng để tránh sự tranh quyền kế vị, đã cho hạ sát chính cháu nội mình...
Thế là Giáo Phái Nicée từ thế hạ phong trở thành ưu thắng, đẩy phái Arius vào quên lãng, nhờ sự quy thuận của một anh “rợ” Franc, do sự kiên trì áp lực của Clotilde, một mỹ nhân với quá khứ truân chuyên, đầy hận thù và khát vọng quyền uy, và do cái nhìn chính trị sâu sắc của Geneviève, một nữ thủ lãnh can trường và lỗi lạc... Giả sử Clovis rửa tội theo phái Arius như bao nhiêu người đồng chủng Germains khác, thì ngày nay ai dám quả quyết được rằng giáo lý chính thức của Giáo Hội Công Giáo đã không phải là tín lý Arius ? Quyền uy của Giáo Hội cũng không khỏi bị hạn chế mạnh mẽ (giáo quyền phải thần phục Vua, như đã nói), và lịch sử của Âu Châu có lẽ đã đi hẳn về một hướng khác ! Lịch sử thế giới bị quy định nhiều bởi lịch sử Âu Châu có lẽ cũng đưa chúng ta vào một bối cảnh hiện đại hoàn toàn khác. Tôi để cho bạn tự mình tưởng tượng...
-BA -
Và nước Pháp đã sinh ra. Tên của bộ lạc Franc trở thành France, hay Phú Lang Sa, nói theo kiểu Đại Nam ta ! Nước của Clovis bị con cháu tranh dành xâu xé, rồi cũng nát như tương. Các Vua bạc nhược, thực quyền rơi vào tay những “tướng quốc”. Một vị Tướng Quốc tên là Charles Martel, nhờ công chặn được quân Hồi Giáo ở Poitiers, trở thành “anh hùng dân tộc”. Con ông là Pépin le Bref (Pépin “lùn") soán ngôi Vua, lập nên một triều đại mới, và người con ông là Charlemagne (Carolus Magnus, hay “Charles Lớn”, 742-814), tái thống nhất nước Pháp, mở rộng biên thùy đến gần như toàn thể Tây Âu, và được Đức Giáo Hoàng sắc phong Hoàng Đế. Charlemagne cũng là người đã sáng chế ra trường học (dù ông mù chữ !), thiết lập hệ thống hành chánh, luật pháp, cũng như hệ thống quý tộc, còn tồn tại tới ngày nay. Gần đây có chuyện một quan tòa đã sử một vụ tranh chấp theo “loi salique”, tức luật đặt ra từ thời Charlemagne ! Mặt khác, các gia đình sau này tự cho mình là “thực sự” quý phái, chính là hậu duệ của những cận thần của Charlemagne, từng theo ông ăn nhậu, đập lộn, rượt gái, phá làng phá xóm, lúc ông chưa nắm quyền, nhưng cũng là những kiện tướng sẵn sàng hy sinh cho vị quân vương của mình trong các cuộc chinh chiến. Mỗi người trong số họ đều được cắt đặt cai quản một lãnh thổ của đế quốc, gọi là comté (gốc của các “county” bên xứ Mẽo), thay mặt Hoàng Đế.
Sự nghiệp lêu lổng chơi bời lúc thiếu thời của Charlemagne chũng được các sử gia gần đây nhắc lại. Đến nỗi ông là con trưởng mà phụ thân ông lại giao truyền phần chính yếu của sự nghiệp cho người em ông, tên Carloman. Người ta nghĩ rằng ông đã đầu độc người em này, và bắt giam các cháu của mình (tức các con của Carloman) để cưỡng chiếm trọn vẹn quyền uy.
Trong số kiện tướng của Charlemagne có Roland là nổi tiếng nhất. Lịch sử chính thức cho rằng ông bị quân Hồi Giáo (hay cũng có thể là quân Basque) phục kích giết chết ở Roncevaux, vùng núi Pyrénées, miền tây nam nước Pháp, sau khi chiến đấu vô cùng dũng cảm. Tuy nhiên, dân vùng tôi ở lại quả quyết rằng đó là chuyện bịa đặt. “Thực sự” ra, Roland chết cách Vitré (miền Tây nước Pháp), nơi tôi ở, khoảng 10 cây số, giữa một khu rừng thuộc làng Dompierre du Chemin. Nơi đó có những tảng đá rất lớn, đến vài chục thước. Truyền thuyết địa phương cho là Roland ngồi trên lưng ngựa nhảy từ tảng đá này tảng đá khác ba lần : lần đầu cống hiến cho Thiên Chúa, lần thứ hai cho sự vinh quang của Charlemagne, và lần thứ ba cho tình yêu của anh ta với cô nàng nào đó. Nhảy lần đầu, ngon lành, lần thứ hai, trơn tru, đến lần thứ ba, ngựa trượt chân, Roland rơi xuống vực xâu, thiệt mạng. Cô nàng nọ buồn quá đến tại chỗ khóc than đến nỗi giữa hai tảng đá nước mắt chảy thành một dòng suối, ngày nay vẫn còn !
Kiện tướng của Charlemagne còn một Giám Mục võ nghệ tinh thông, dường như tử trận trong một chuyến chinh phạt người Hồi Giáo ở Tây Ban Nha. Chắc bạn đã biết Tây Ban Nha bị người Hồi Giáo chiếm từ năm 711 đến năm 1492 mới hoàn toàn bị tống xuất khỏi nước này. Điều thú vị là chỉ cần vài trăm kỵ binh, là đủ để quân Hồi Giáo thôn tính chớp nhoáng trong vòng không đầy một năm, cả lãnh thổ Tây Ban Nha mà La Mã đã phải mất đến hai thế kỷ để chiếm đoạt ! Vì sao ? Vì người Tây Ban Nha lúc đó theo Giáo Thuyết Arius (đọc ở trên) nên họ sợ bị phái Công Giáo Nicée tấn công, và coi người Hồi Giáo như một thế lực sẽ che chở họ. Những người Công Giáo trông vào người Hồi Giáo để bảo vệ mình trước sự đe dọa của người Công Giáo khác, cũng ngộ đấy chứ !
Charlemagne cũng dây dưa rất nhiều đến các vấn đề tôn giáo và chính trị có ảnh hưởng đến ngày nay. Ông là người cắt đất (vùng Roma) cho Đức Giáo Hoàng, và ngược lại nhận lãnh sắc phong Hoàng Đế từ tay Giáo Hoàng. Điều này mở ra một truyền thống quan trọng. Thứ nhất, các Hoàng Đế Tây Phương từ nay được sắc phong bởi Giáo Hoàng La Mã, như thể vị này nắm giữ truyền thống của Đế Quốc La Mã xưa. Sau đến, là từ thời điểm đó, sự phân ly giữa Đông và Tây trong “thế giới La Mã” được coi như dứt khoát. Phương Đông có Hoàng Đế đóng đô ở Constantinople, hoàn toàn tách rời khỏi Tây Âu. Khi ta biết đế quốc Nga sau này chính là hậu thân của đế quốc La Mã Đông Phương (Nga Hoàng mang họ Romanov, có nghĩa là “người La Mã”, và tiếp tục sử dụng con đại bàng La Mã trong các phù hiệu của mình), và chiến tranh lạnh chẳng phải là gì khác hơn một cuộc tranh chấp Đông-Tây giữa những người kế thừa của hai đế quốc này, thì chúng ta dễ dàng nhận thấy tầm quan trọng suốt trong giòng lịch sử của các quyết định chính trị thời Charlemagne.
Đó là trên mặt chính trị. Về phương diện tôn giáo, sự phân ly Đông Tây trở nên gần như tuyệt đối từ khi Charlemagne ép Đức Giáo Hoàng La Mã đưa vào văn kiện tín điều Công Giáo soạn bởi Công Đồng Nicée chữ “filioque”. Chữ này có nghĩa là “và Chúa Con”, diễn đạt niềm tin Chúa Thánh Thần đến từ Chúa Cha “và Chúa Con”, chứ không chỉ đến từ Chúa Cha mà thôi. Đương nhiên là vị Giáo Chủ Đông Phương ở Constantinople, giáo quyền tương đương với Giáo Hoàng La Mã, phản đối mạnh mẽ, và từ đó tuyệt thông với Giáo Hội La Mã, cho đến cách đây vài năm khi Một Giáo Chủ Đông Phương chấp nhận cử hành Thánh Lễ chung với Đức Gioan Phao Lồ đệ nhị, nhưng lại bỏ ra ngoài khi Đức Giáo Hoàng và tín đồ đọc Kinh Tin Kính có chữ Filioque !
Đế quốc của Charlemagne rồi cũng phân tán, do sự tranh chấp giữa các con cháu ông, và giữa hậu duệ của những cận thần được ông sắc phong đất đai. Trong tình trạng sứ quân này, sảy ra chiến tranh 100 năm với Anh Quốc, do vua Anh Quốc áp dụng luật thừa kế, đòi quyền làm vua nước Pháp. Trong cuộc chiến tranh ấy một cô gái nhà quê chỉ vừa 17 tuổi, với một đội quân nhỏ, đã đạt được những chiến công hiển hách. Đó là Jeanne dArc (1412-1431), anh hùng dân tộc, hiện bị đảng Quốc Gia quá khích chọn làm biểu tượng. Chỉ một năm sau khi chiến thắng những trận đầu tiên, Jeanne bị quân Bourguignon (hậu duệ của người Burgondes đã nói ở trên) bắt được đem bán cho quân Anh. Một tòa án Giáo Hội, chủ tọa bởi Đức Giám Mục Cauchon, được lập nên và kết án Jeanne tội lạc giáo và phù thủy. Cô bị thiêu sống, hình phạt dành cho tội danh thông dụng này. Gần đây, năm 1920, Jeanne được Đức Giáo Hoàng phong Thánh. Cách đây vài hôm, một đồng nghiệp cho tôi biết Giám Mục Cauchon, người chủ trì Tòa Án Giáo Hội đã kết án cô, được an táng ở Thánh Đường Lisieux, nơi hành hương của những người thờ kính Nữ Thánh Thérèse, một nữ tu dòng kín cuối thế kỷ 19.
Tình trạng sứ quân, phong kiến, dần dần giảm bớt từ thời vua Louis thứ 11, và coi như dứt hẳn với vua “Mặt Trời” Louis 14, khi ông này hạ lệnh phá hủy đa số thành lũy của các vị lãnh chúa, và cho xây dựng những thành lũy thực sự đóng vai trò chiến lược quốc phòng, trấn đóng bởi quân đội hoàng gia. Truyền thống trung ương tập quyền bắt đầu từ đó, kéo dài đến ngày nay. Thật vậy, nền Đệ Ngũ Cộng Hòa Pháp được coi như một loại “tổng thống chế quân chủ” (monarchie présidentielle), với một sự tập trung quyền lực mạnh mẽ so với các nước dân chủ khác. Dưới thời Tổng thống Mitterrand mới bắt đầu có kế hoạch tản quyền cho các địa phương, và xuất hiện vài định chế mới phân tán bớt quyền lực của hành pháp, cũng như sảy ra những cuộc chung sống giữa Tổng Thống tả khuynh và Thủ Tướng hữu khuynh (hiện thời thì ngược lại), hạn chế quyền lực của tổng thống.
-BỐN -
Sau chuyến du hành vài tuần ở bắc Pháp, tôi trở về “nguyên quán” Thụy Sĩ nhiều tháng, rồi lại vượt biên lậu trở sang Pháp, để ở luôn cho đến bây giờ. Lần này tôi đến Rennes, thủ phủ vùng Bretagne, miền Tây nước Pháp. T, bạn tôi, quả quyết ở Pháp đời sống rẻ và dễ dãi cho sinh viên ngoại quốc hơn Thụy Sĩ. T hoàn toàn có lý. Lưu xá sinh viên, quán cơm sinh viên, đều rẻ mạt, trong khi ở Thụy Sĩ, đi ăn quán cơm sinh viên (Mensa) là một hành vi cấm kỵ đối với tôi, vì túi tiền không cho phép, ngoại trừ khi làm công ở đó, được cho ăn “chùa”. Đại Học Pháp cũng miễn phí, chỉ phải đóng vài khoản tiền nhỏ, bảo hiểm, thư viện ...
Còn vấn đề hợp thức hóa tình trạng lưu trú. Tôi liều mạng ghi danh vào trường Y Khoa rồi mới hồi hộp ra trình diện sở lưu trú. Người Giám Đốc sở này có đứa con trai cũng vừa ghi tên vào Y Khoa. Không biết có phải vì thế hay không mà ông dành cho tôi mọi sự dễ dãi, chẳng hạch hỏi làm thế nào “vượt biên” sang được tới đây, mà thuận ngay cho tôi giấy lưu trú khi tôi vừa nói đã ghi danh vào Y Khoa. Ngày nay luật lệ di trú rất gắt gao, các bạn trẻ muốn diễn lại màn “vượt biên” của tôi nên suy nghĩ kỹ. Giải pháp lấy một cô đầm nghe đâu cũng không còn giải quyết được tình trạng ở lậu như xưa. Lấy vợ đầm ngày nay chỉ còn hiệu nghiệm trên mặt sức khỏe, theo truyền thống “ở xứ nào dùng đồ thổ sản xứ đó” của Đông Y, chứ không linh nghiệm trên mặt di trú nữa !
Người Việt ở Rennes vào năm 1975 đại đa số là sinh viên, chia làm ba nhóm ở ba khu Đại Học (campus). Phần lớn học Y Khoa, ở quanh trường Y, nhóm khác học trường Kỹ Sư INSA (Học Viện Quốc Gia về Khoa Học Áp Dụng) và Đ.H. Khoa Học ở một campus khác, và vài vị, đa số là các cô, học Kinh Tế ở trong trung tâm thành phố. Dân Y quây quần trong vài lưu xá gần nhau, đi ăn cùng chỗ, học cùng nơi... nên đỡ cô đơn hơn các sinh viên Việt Nam ngành khác, nhưng có lẽ cũng “hội nhập” chậm hơn vào dời sống của dân bản xứ. Tất cả chúng tôi, tổng cộng có lẽ trên dưới 200 mạng, nếu tôi ước lượng không lầm. Khi tiếp xúc lần đầu với các anh em đã đến trước, tôi kinh hoàng nhận thấy đa số đều bị trượt kỳ thi tuyển vào cuối năm thứ nhất Y Khoa, kể cả T. thủ phạm đã kéo tôi đến đây. Tôi nghĩ bụng : “cái gì cũng có vẻ dễ dãi, nhưng nếu xông vào cửa ải này để thi rớt, thì e rằng ... không ổn !” Thật ra cũng có vài vị đậu, và đậu cao, như CHB bạn học cũ ở Việt Nam, đậu hạng ba (có trên 1000 thí sinh), NHT đậu hạng 8 hay 9 chi đó, và hôn thê của NHT, đậu trong 10 người đầu trường Nha.
Phải nói là tinh thần sinh viên Việt Nam lúc đó rất thấp. Biến cố tháng tư 75 đem đến những hoang mang lo lắng về tương lai (đa số đều dự định học xong về nước làm việc), về sinh kế trong hiện tại (mất nguồn tiếp tế bên nhà), và những sợ sệt cho gia đình còn ở Việt Nam, đang học tập cải tạo, hay biệt vô âm tín, vì đi “boat people”, có khi đã gửi thây trong bụng cá... Nhiều bạn sống trong tình trạng kinh tế rất khó khăn, ở cả đám trong một phòng cá nhân, ăn bánh mì lấy “chùa” ở quán ăn sinh viên với chút đồ hộp rẻ tiền hay chút nước dùng nấu bằng viên “Kub”. Coi vậy nhưng lâu lâu cũng mời nhau ăn “phở giả” nấu bằng spaghetti với mấy cục thịt loại rẻ tiền nhất ! Thời ấy, xương bò, đầu cá, có khi cả bộ lòng còn có thể xin được ở tiệm (nay thì họ bán cả). Thói quen ăn uống tằn tiện này đeo đuổi theo tôi rất lâu. Cho tới bây giờ, họa hoằn có phải đi chợ, tôi vẫn vác về các cục thịt rẻ tiền, bị vợ con chê là cứng, là lắm gân nhiều mỡ v.v... Anh em đều cật lực tìm việc làm đêm, hay trong những tháng hè. Có bạn lên Paris làm cho một tiệm Việt Nam bị bóc lột thậm tệ. Tôi may mắn tìm được việc bồi bàn 4 tháng mỗi năm trong một quán nước có 16 giàn Bowling, một việc nhiều tiền nhưng rất cực, mỗi ngày làm khoảng 14 giờ. Đặc điểm của tiệm này vào thời đó là về khuya hay có khách hàng thuộc giới du đãng nổi tiếng của tỉnh Rennes đến nhậu nhẹt. Quý vị này ưa gây sự đánh lộn, không trả tiền, đập phá, khiến bồi bàn ở đây hay phải dùng đến nắm đấm. Trong ngày thì khách hàng lại rất lịch sự đàng hoàng, khiến công việc này đã đem đến cho tôi nhiều hiểu biết về những giai tầng xã hội khác nhau của nước Pháp.
Tình trạng sinh sống khó khăn khiến vài bạn phát chứng lao phổi phải vào trung tâm dưỡng bệnh. Tôi cũng nhận thấy trong số sinh viên Việt Nam ở Rennes, 4 trường hợp bệnh tâm thần nặng (dạng schizophrénie - tâm thần phân liệt chứng) phải vào nhà thương điên (hai người Y, một người Nha, và một chị học kinh tế). Bệnh suy sụp tâm thần (dépression nerveuse) thì chắc là rất phổ biến, nhưng ở những dạng trá hình, như trường hợp một bạn nằm nhà suốt ngày nghe cải lương, thi trượt liền mấy năm. Bạn này trước đó không hề thích cải lương, và sau này cũng không bao giờ nghe tới cải lương nữa !
Một số nhỏ trong chúng tôi ủng hộ chính quyền Hà Nội, và “hồ hỡi” trước thành quả “giải phóng”. Nhóm anh em này thường có gia đình đã hoạt động kín cho CS ở Việt Nam, hoặc là những vị đã du học lâu năm, chịu ảnh hưởng bởi sinh hoạt trí thức rất tả khuynh tại Pháp. Thật vậy cho đến những năm gần đây, chữ “trí thức” ở Pháp gần như đồng nghĩa với “thiên tả”, không Marxiste thì cũng Xã Hội, chưa kể trong giới sinh viên, thành phần cực tả rất đông. Các “đại trí thức” của nước Đại Pháp ngày nay lớn tiếng hò hét chửi bới CS, phần đông là người thiên cộng lúc trước. Sinh viên Việt Nam sang Pháp lâu năm thường rất bị ảnh hưởng bởi trào lưu chống chính quyền miền Nam, ủng hộ miền Bắc “chống Mỹ cứu nước” (người Pháp ít ưa Hoa Kỳ, mặc dù đã được Hoa Kỳ Giải thoát trong hai cuộc thế chiến). Campus của các trường Y, Dược, và Văn Khoa lại là lãnh thổ của sinh viên cực tả Pháp, truyền nhân của những người đã nổi loạn năm 1968 (một trong những khủng hoảng chính trị quan trọng nhất từ cách mạng Pháp 1789). Thậm chí cả đảng CS Pháp cũng bị quý vị này coi là phản động, phản cách mạng, cấm không được đem báo và bích chương vào quán ăn sinh viên của campus ! Ngày kia, khoảng đầu năm 76 đám Mít chúng tôi uống thuốc liều sông bừa vào quán sinh viên dán bích chương và phát truyền đơn chống chính quyền Việt Nam. “Địch” huy động ngay lực lượng hùng hậu có cả chó “bẹc giê”, đến tống xuất chúng tôi. Điều mỉa mai là tên giám đốc quán sinh viên, thấy thế mạnh của phía cực tả, cũng bày đặt nhào tới ra lệnh cho chúng tôi rời khỏi quán, nhường chỗ cho quý vị Maoiste với Anarchiste (vô chính phủ) dán bích chương, phát truyền đơn và bán báo...
Mặc dù có sự phân hóa Quốc Cộng, cho đến trung tuần tháng 9 năm 75, sinh viên Việt Nam ở Rennes vẫn nằm trong cùng một Hội Ái Hữu. Cho đến ngày họp để bầu lại Ban Chấp Hành. Hôm đó tôi hoàn toàn không có ý định đến họp, vì trong đầu còn trăm mối lo, lại là “ma mới” lạ người lạ việc, không dám dự bàn “quốc sự”. Một lý do khác là tôi ở tận lầu 10, phiên họp lại diễn ra dưới tầng trệt, nhằm đúng ngày thang máy hư, nên tôi quả quyết là định mệnh đã an bài cho tôi ... nằm nhà ! Buổi tối hôm ấy, sau khi ăn cơm, anh Q. một đàn anh du học từ đầu thập niên 60 leo 10 tầng lầu đến gõ cửa phòng tôi, yêu cầu phụ trách một lớp võ thuật cho anh em Việt Nam. Tôi nhận lời. Đang lúc ngồi nhắc chuyện quê hương thì anh đứng dậy bảo phải xuống nhà họp Hội Ái Hữu, và rủ tôi cùng đi. Không tiện từ chối, tôi miễn cưỡng theo anh. Đầu phiên họp, anh L., người thủ lãnh nhóm sinh viên thiên Cộng, một phụ khảo trường kỹ sư INSA, tuyên bố đòi giải tán Hội Ái Hữu SV Việt Nam tại Rennes, thay bằng Phân Hội Rennes của Hội Người Việt Yêu Nước tại Pháp. Cử tọa hoang mang chưa biết phản ứng ra sao. Nhiều nguời lo sợ cho gia đình còn ở Việt Nam, có ý xuôi thuận cho xong, chẳng mất mát gì. Hội Trưởng cũ thì lên tiếng tuyên bố đứng ngoài, và không chịu giữ chức vụ gì nữa. Không hiểu vì lý do gì mà tôi nổi nóng đứng lên chống đối dữ dội, không chấp nhận việc giải tán hội Ái Hữu, một hội mà cho đến giờ phút đó, tôi chỉ được nghe nói qua loa. Phía bên kia cãi lại kịch liệt, lời lẽ của chúng tôi lên dần đến độ rất gay gắt, mất cả lịch sự. Anh L. trong cơn nóng giận lớn tiếng hăm dọa “ai chống đối sẽ lãnh nhận hậu quả”! Theo trí nhớ của tôi thì chính vào lúc đó mà cử tọa phiên họp ngả hẳn về lập trường không chịu giải tán Hội. Anh L. đã chạm tự ái của họ, và lần lượt hết người này đến người khác lên tiếng phản đối anh ta. Rốt cuộc anh giận dữ rời phòng họp kéo theo các sinh viên thiên Cộng. Phân Hội (chúng tôi gọi là Hội “phân") ra đời. Hội Ái Hữu bầu lại ban chấp hành. Từ đó tôi bị lôi cuốn vào việc hội đoàn, rồi lần lần dây dưa đến bao việc khác, cho đến ... bây giờ !
Ở thế cưỡi cọp, chúng tôi phải cố gắng tổ chức Hội để đương đầu với “Phân Hội”. Hội viên của chúng tôi sau cơn bốc đồng vì tự ái, lại trở về với những lo sợ của họ, nên thường chạy bên này bên kia, không cố định. Thậm chí phó Hội Trưởng của Hội Ái Hữu vài ngày sau lon ton chạy sang Phân Hội, cũng làm ... Phó Hội Trưởng ! Chúng tôi bỏ tiền riêng, ra hai tờ báo, tổ chức ăn cơm rẻ tiền (trả một phiếu ăn quán sinh viên), tổ chức văn nghệ, Tết, nhắm mắt cho vào “chùa”, lập lớp võ thuật, đội đánh bóng chuyền v.v... để lôi kéo hội viên. Nhóm nồng cốt làm mọi việc, chịu mọi hy sinh, chỉ gồm có vài mạng, nhưng cố quậy lên cho bên ngoài nhìn vào có vẻ xôm tụ ! Phía bên kia cũng có những nỗ lực tương tự. Thí dụ NAD, thủ lãnh của họ sau khi anh L dời đi chỗ khác, rủ anh em đến hớt tóc, nhưng trước đó phải ngồi nghe thu thanh diễn văn của đại sứ Việt Cộng tại Paris ! Trong những năm này NAD từng được cử làm đại diện thanh niên “yêu nước” Việt Nam tại Pháp đi dự đại hội Thanh Niên CS ở Cuba. Chúng tôi cũng được chứng kiến một cách thú vị các cậu Lào bị mất hội lục tục kéo nhau ngồi đầy sân lưu xá học tập chính trị với đám cán bộ do Tòa Đại Sứ CS Lào Cộng gửi xuống ! Nhìn quý vị nổi tiếng lè phè này hò hát những bài ca cách mạng, dơ cao nắm đấm hoan hô đả đảo, chúng tôi cười bò lê bò càng. Sau đó mỗi lần gặp mấy tay Lào quen, tôi thường hỏi :“chú mày đã giác ngộ cách mạng chưa ?” và được nghe một tràng chửi rủa, không biết nhắm vào tôi hay nhắm vào các “anh hùng cách mạng” ?
-NĂM -
Tình trạng ở các tỉnh khác có lẽ cũng tương tự. Nhiều nơi mất hội, vài chỗ còn duy trì được, như Rennes. Những người hoạt động hội đoàn ở Pháp và cả Âu Châu nhanh chóng tạo dịp gặp gỡ nhau. Trong năm 75 có đại hội báo chí Âu Châu, rồi nhiều đại hội chính trị liên tiếp những năm sau đó. Tôi còn nhớ một ĐH Chính Trị có Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và vài học giả khác tham gia giảng dạy. Nổi bật nhất là những Đại Hội Thể Thao Âu Châu, được tổ chức đều đặn, và là dịp gặp gỡ vô cùng vui nhộn giữa các chí hữu cùng dấn thân vào một sứ mạng. Trong các Đại Hội Thể Thao, đại diện các nơi bàn thảo chương trình hoạt động chung, trao đổi các kinh nghiệm, giúp nhau phương tiện, và mỗi tối, bên quán cóc của đại hội, quây quần hò hát (và hò ... hét !), trình diễn “văn nghệ bỏ túi”, với tinh thần trào lộng, vui vẻ và ấm cúng ít thấy ở những dịp khác. Anh em Thượng Du đến từ Đan Mạch là phái đoàn gây nhiều chú ý và cảm tình nhất, cùng với phái đoàn Marseille, lãnh đạo bởi anh Louis, một nhân vật ít ai không biết, và Tổng Hội Sinh Viên Paris, với những người gương mẫu của giới hoạt động thời đó như các anh Hưng, Liêu, Lưu, Vũ...
Nhóm anh em người Thượng được Đan Mạch nhận tỵ nạn và lo lắng rất chu đáo. Mỗi ĐH Thể Thao, các anh em này là hội đoàn duy nhất đến bằng máy bay, có đồng phục, phù hiệu cẩn thận, và dường như có cả nhân viên Đan Mạch đi theo chăm sóc. Khả năng thể thao của họ rất cao. Tôi nhớ có lần trong một cuộc thi chạy dai sức, năm lực sĩ về đầu đều là anh em Thượng ở Đan Mạch ! Tài văn nghệ của họ cũng cao cường không kém, nhất là văn nghệ bỏ túi ở quán cóc ĐH mỗi tối. Hội Marseille thì nổi tiếng trong ngành đá banh. Lực sĩ của họ gồm nhiều anh em lai Pháp to lớn, khiến các đội khác phải kiêng dè.
Tôi cũng được gặp Trần Văn Bá chủ tịch Tổng Hội trong những dịp này, và trong các phiên họp khác giữa các hội đoàn. Một ngày kia, tôi bàng hoàng nghe tin anh về Việt Nam bị bắt, rồi bị giết. Sự tử nạn của anh Bá đặt mọi người trước một thực tế : hoạt động hải ngoại phải được nối tiếp bằng hoạt động trong nước, và chính hoạt động trong nước mới thực sự là chủ yếu. Tiếc rằng trong nhiều năm dài, nỗ lực của người Việt Hải Ngoại hướng quá nhiều vào những công việc bên ngoài, với một tâm lý như như thể chờ đợi một cái gì, đánh mất bao thời giờ quý giá.
Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris vốn được coi như “đầu tàu” của các hoạt động sinh viên từ trước năm 1975 mãi đến nhiều năm sau đó. Khi chưa có những tổ chức quy mô, nhiều hội địa phương có thói quen đón nhận sự yểm trợ của Tổng Hội Sinh Viên Paris. Thậm chí có truyền thuyết, không biết đúng bao nhiêu phần, kể lại rằng có lần tại Grenoble (?) sinh viên Quốc Gia bị đám thiên tả địa phương bao vây trong campus. Anh em kêu cứu Tổng Hội, liền được gửi một phái đoàn đến giải cứu, chỉ huy bởi M. một võ sư chuyên giữ trật tự cho các buổi văn nghệ của Tổng Hội. Trong trận đánh, nghe đồn M. đã bắn chết, hay bị thương nặng, một anh chàng thiên tả. Sau tôi có đến học M., được anh giới thiệu đi giữ trật tự trong vài buổi lễ của dân bản xứ gần Paris (một lần ở Maison Alfort, một buổi lễ có sự tham dự của đại sứ Hung Gia Lợi), nhưng tôi không dám hỏi anh về vụ này. Hiện anh đã bỏ nghề võ và đi vào sinh hoạt tâm linh, đạo đức.
Báo của Tổng Hội, tờ Nhân Bản, theo tôi biết, có lẽ là tờ báo phát hành lâu đời nhất và đều đặn nhất ở Hải Ngoại, cho đến nay. Bên cạnh Nhân Bản, còn nhiều tờ báo có giá trị, tuy thực hiện với phương tiện hạn chế, nhưng nay đều đã đình bản. Một tờ bào trào phúng xuất hiện ngay sau tháng tư 75 mà tôi rất thích là tờ “Búp”, của anh em ở Bỉ thực hiện. Bên phía đối phương thì có tờ Đoàn Kết (chúng tôi gọi là “Đàn Két") của Tòa Đại Sứ VC, gửi “chùa” cho tất cả chúng tôi. Có anh bạn bực mình gửi trả lại, đến kỳ sau, họ gửi cho hai số !
Hiện nay tôi nhận được đều đặn tờ Âu Du của Hội Montpellier, một hội thoát thai từ truyền thống sinh viên, tờ Văn Hóa ở bắc Pháp, tờ Về Nguồn, với tôn chỉ hay đẹp : “dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân” (nhờ văn hóa tụ hội bạn bè, và cùng bạn bè giúp đỡ tha nhân), tờ Nạng Gỗ của những vị tự mang sứ mạng cao quý giúp đỡ thương phế binh tại Việt Nam, tờ Bông Sen của các bạn Phật Tử, rồi Bản Tin Khánh Anh, tài liệu quý báu vì đầy những bài học giá trị, của Chùa Khánh Anh, nơi hoạt động Phật Giáo sinh động nhất Paris và Pháp Quốc, và Tập San Y Sĩ của Hội Y Sĩ Việt Nam tự do tại Pháp. Ngoài ra, lâu lâu còn được đọc báo Tin Tức, ấn hành song ngữ, cũng như Tiếng Gọi Dân Tộc của cựu bộ trưởng Võ Long Triều, rồi Quê Mẹ của nhà văn Võ Văn Ái, cũng là cơ sở của Hội Bảo Vệ Quyền Làm Người tại Việt Nam, tờ Thông Luận, của nhóm cùng tên, từng bị chỉ trích, thậm chí bị hành hung vì lập trường “hòa hợp hòa giải”, và hiện là một “đầu cầu” quan trọng nối liền hải ngoại với những người chống đối chế độ Hà Nội trong nước. Phía bên kia, có lẽ (?) vẫn còn “Đàn Két”, dù một phần quan trọng những người cộng tác với báo này đã nhảy ra chống đối, và quy tụ nhân lực trong tờ Diễn Đàn.
Nhắc đến sinh hoạt hội đoàn không thể quên hội Ái Hữu Sinh Viên Việt Nam vùng Nam Paris, gọi là Hội Orsay, “cạnh tranh” hữu hiệu với Tổng Hội Sinh Viên Paris trong các hoạt động cộng đồng, văn nghệ, thể thao, và báo chí (tờ Ái Hữu). Nhân lực của hội này gồm nhiều người cũng là thành viên của Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến, khiến cho khí thế đấu tranh của họ rất đặc biệt. Hội Orsay có đến Rennes giúp chúng tôi tổ chức văn nghệ vài lần. Sau này, vùng Paris được tăng cường thêm Hội Thanh Niên Tỵ Nạn, cũng với những sắc thái sinh hoạt nổi bật. Cách đây vài tuần tôi được biết anh em Thanh Niên Tỵ Nạn có sự xích mích với Tổng Hội trong việc tổ chức Đại Hội Thể Thao và Đại Hội Nhạc Trẻ. Mong rằng sự thể sớm được dàn xếp tốt đẹp trong tình huynh đệ đồng hương, đồng lý tưởng. Cũng cần nhắc đến Văn Phòng Liên Lạc các Hội Đoàn tại Paris, tuy thường gặp lắm vấn đề, nhưng cũng đã giúp ích nhiều cho sinh hoạt cộng đồng Việt Nam tai thủ đô nước Đại Pháp.
Gần Rennes hơn, lúc còn sinh hoạt hội đoàn, chúng tôi liên lạc với các Hội Nantes, Laval, và đôi khi đến giúp các hội này làm văn nghệ Tết. Chúng tôi cũng tổ chức kỷ niệm 30 tháng tư chung cho ba tỉnh, và có chương trình làm báo chung. Rồi, do một sự tình cờ, chúng tôi bắt liện lạc với Toulouse, và, khoảng năm 76 hay 77, đến đó gặp gỡ các thành phần cốt cán trong sinh hoạt địa phương. Toulouse lúc đó hoạt động rất mạnh, nhờ vài tay sáng giá (có người hiện đầu quân bên Liên Minh Dân Chủ). Vì xa xôi chúng tôi không duy trì được liên lạc thường xuyên...
-SÁU -
Chuyến đi Toulouse này cũng là một dịp để viếng thăm một vùng nổi tiếng của nước Pháp. Nhà cửa dinh thự ở Toulouse được xây bằng gạch đỏ nên thành phố này có một màu sắc đỏ hồng và tím rất ấm cúng. Đây cũng là một thành phố mang nặng truyền thống, với Hàn lâm Viện Văn Chương đầu tiên, cũng như hướng đến tương lai, với ngành kỹ nghệ Không Gian càng ngày càng phát triển. Ở vùng Toulouse, người ta thực hiện một phần của các máy bay Airbus, của Hỏa Tiễn Ariane và của phần lớn các vệ tinh Âu Châu và Pháp. Từ Toulouse, chúng tôi đi Lourdes, viếng thăm nơi được tin là đã có Đức Mẹ hiện ra với một cô gái tên Bernadette Soubirou. Thật ra, trong tín ngưỡng dân gian có rất nhiều nơi Đức Mẹ hiện ra. Gần chỗ tôi ở cũng có một “thánh địa” kiểu này, tên là Pont Main, nhưng ít nổi tiếng và dường như chưa được giáo quyền công nhận. Lúc tôi đến Lourdes là mùa đông, nên vắng hoe, mặc tình dạo chơi thoải mái, chẳng bù với mùa hè, đông nghẹt người đến cầu ơn phước, chen chân rất vất vả. Nơi giòng suối dưới hang đá chỗ đức Mẹ hiện ra, bây giờ là những vòi nước để khách hành hương có thể hứng đem về uống chữa bệnh. Thuở nhỏ ở Việt Nam tôi đau ốm chi đó, đã từng được uống nước này. Nhiều nạng gỗ được treo khắp nơi, cùng với những tấm bia của những bệnh nhân hay người tàn phế tạ ơn Đức Mẹ đã chữa lành cho họ. Đường phố đầy những tiệm bán đồ kỷ niệm : tượng, tràng hạt, mô hình hang đá v.v... Nhìn những tượng Đức Mẹ da trắng mắt xanh thậm chí có khi tóc vàng, tôi nghĩ bụng làm gì có người đàn bà thuộc sắc dân Sémite mà lại có hình thù như vậy ? Có chăng cũng phải da ngăm đen, tóc quăn tít, và phủ khăn che mặt, cho đúng kiểu người Palestine chứ ! Cũng như Đức Ky Tô có lẽ hình hài cũng phải nhiều phần giống Arafat hơn là Robert Redford ! Thế mới biết con người thường thích nghi hóa Thượng Đế và các Thần Thánh theo hình ảnh của chính họ...
Không xa Toulouse còn có nhiều di tích tôn giáo rất đáng viếng thăm khác, như tu viện Moissac, thành lập vào thế kỷ thứ 7, một chặng dừng chân trên đường hành hương đến St Jacques de Compostelle miền Bắc Tây Ban Nha (nơi chứa hài cốt của Thánh Tông Đồ Jacques). Vòng sân trong (cloitre) của tu viện Moissac được coi như đẹp nhất Tây Âu. Một chặng hành hương khác là Thánh Đường St Sernin nơi chứa hài cốt Thánh Sernin, xây cất từ thế kỷ 11 đến 14. Rồi cũng phải kể đến Thánh Đường Ste Foy de Conques nằm trong thung lũng sông Ouche, giữa một phong cảnh hùng vĩ, cất theo kiểu Roman (hai kiểu mẫu kiến trúc chính thời xưa là Roman và Gothique) nhưng lại được trang hoàng bởi những tấm kính (vitraux) vẽ bởi một danh họa thời nay là Pierre Soulages (ông này chịu nhiều ảnh hưởng Á Đông). Nơi đây cũng có một kho bảo vật gồm những món đồ trang trí và thờ tự vô cùng quý giá. Khách hành hương đến đây chiêm bái hài cốt một thánh tử đạo bị lấy cắp từ một tu viện ở Agen, gần đó. Xa hơn chút nữa là tu viện Thoronet, lập nên bởi một người hát dạo trở thành giám mục thành Toulouse. Người ta cũng có thể trở lên phía bắc viếng thăm Thánh Đường Puy en Velay và thử tìm lại những ảnh hưởng Đông Phương đem về bởi các cuộc Thánh Chinh (Croisades), cũng như chiêm ngưỡng phong cảnh vốn là những núi lửa cũ ở chung quanh. Thánh Đường này được dựng trên di tích một đền thờ Thần Mercure, mà người Pháp vẫn còn “tưởng niệm” vào ngày thứ tư (Mercredi có nghĩa là ngày của Mercure - người Anh Mỹ gọi là Wednesday, ngày của Oddin, vì thần Oddin của giống dân Germanique bị người La Mã đồng hóa với thần Mercure của họ).
Tôi cũng đề nghị bạn nên đến thăm lâu đài La Brède gần Bordeaux, nơi cư ngụ của văn hào Nam Tước (baron) Montesqieu, người được coi như đã sáng chế ra nguyên tắc “tam quyền phân lập” trong hiến pháp 1791 của cách mạng Pháp. An Nam ta hay nhắc đến ông như một “đấng thánh” của “dân chủ pháp trị”. Thật ra, tam quyền phân lập chủ yếu đến từ sự chống đối không chịu thi hành các sắc lệnh của nhà Vua trong thời tiền cách mạng của các Nghị Viện (Parlement) Pháp. Lâu đài La Brède nằm giữa hồ nước và vườn cây rất đẹp, lại có một thư viện với hơn 7000 quyển sách.
Bạn cũng không thể không ghé đến Avignon, với “Cung Điện Giáo Hoàng”, nơi cư trú của Giáo Hoàng Clément đệ thất từ 1309, và các vị Giáo Hoàng kế vị ông. Giáo Hội Công Giáo trong thời kỳ này trải qua một cuộc khủng hoảng với hai hay có khi ba vị Giáo Hoàng cùng tự xưng mình là độc nhất chân chính. Thời đại rối ren ấy khiến Avignon không những là một lâu đài, với những nơi thờ tự tương xứng với chỗ ở của những Giáo Hoàng, mà còn mang những sắc thái của một chiến lũy quân sự. Avignon thuộc quyền sở hữu của Giáo Hoàng đến năm 1791 mới bị chính quyền cách mạng Pháp dành lại. Avignon còn nổi tiếng nhờ là nơi tổ chức một Đại Hội Kịch Nghệ và Âm Nhạc danh tiếng, hiện mùa hè mỗi năm quy tụ những nhân tài đến từ khắp nơi trên thế giới.
Một nơi đáng ghé thăm khác là Albi với Thánh Đường danh tiếng, cũng vừa là nơi thờ tự vừa là chiến lũy. Sở dĩ có sự “ghép giống” như vậy là vì Albi vốn là thủ phủ của một giáo phái được truyền bá khắp miền Nam nước Pháp, gọi là Cathare. Giáo Phái này chủ trương sống nghèo khổ xa lánh tiền của vật chất vì tin rằng có một thế giới tốt lành cai trị bởi Thiên Chúa và một thế giới vật chất xấu xa cai trị bởi Ác Quỷ. Các Lãnh Chúa miền Nam nước Pháp, vùng Languedoc (nghĩa là vùng nói tiếng Oc, tức tiếng Occitan), như Lãnh Chúa thành Toulouse, thuận theo giáo phái này, và coi đó như phương tiện để tách khỏi ảnh hưởng của các Lãnh Chúa miền bắc. Khổ nỗi là việc lên án của cải vật chất đặt Giáo Hội trước một tư thế khó khăn khi người ta biết sự giàu có xa hoa của một số giáo quyền, đối lại với tình trạng nghèo khổ của đám thường dân. Tư tưởng này có thể châm ngòi cho những phong trào quần chúng chống đối. Phái Cathare bị lên án là “lạc giáo”, và một cuộc Thánh Chinh (croisade) vô cùng tàn nhẫn được tổ chức bởi các Lãnh Chúa miền bắc Pháp, từ 1209 đến 1218, để tận diệt giáo phái nghèo khó này. Thánh đường Albi với thành lũy kiêu hùng được dựng lên như biểu tượng quyền uy của các Lãnh Chúa miền bắc, trước đám dân chúng mới bị chinh phục, và sát nhập vào lãnh thổ của họ. Thật ra phái Cathare chỉ hoàn toàn biến mất vào thế kỷ 14 với các Tòa Tra Xét Lạc Giáo (Inquisition). Giáo Hội cũng đáp ứng lại lý tưởng sống nghèo của người Cathare bằng cách cho phép lập nên những dòng tu hành khất như dòng Phanxicô, dòng Đa Minh... Ngày nay, truyền thống ăn mày đã mất, nhưng tu sĩ các dòng trên vẫn giữ lý tưởng khó nghèo (cần biết là trong Đạo Phật, tăng đoàn của Đức Phật gồm các Bikkhu, tỳ kheo, cũng có nghĩa là ăn mày, chữ bikkhu cùng gốc với chữ begger của Anh Ngữ).
Bạn cũng có thể viếng thăm cổ thành Montségur, trên đỉnh một núi đá rất hùng vĩ, và nhớ lại rằng đó chính là nơi cố thủ cuối cùng của người Cathare trước các đạo binh tàn bạo của các Lãnh Chúa miền bắc. Sau khi cầm cự anh dũng suốt sáu tháng trường, 225 người sống sót đã chấp nhận bị thiêu sống thay vì từ bỏ niềm tin của họ. Hãy nhỏ cho những vị anh hùng bị bỏ quên bởi sử sách giáo khoa này một giọt lệ...
Một trong những biểu tượng khác của cuộc Thánh Chinh Albi là thành Carcassone, rất đáng thăm viếng, được dựng nên bởi vua thánh Louis để thị oai với dân bản xứ vừa bị đè bẹp. Sau khi xem qua các di tích này, bạn có thể vòng lên Cahors, vừa đẹp vừa có rượu ngon, hay đi dạo chơi ở thung lũng sông Tarn, mướn thuyền tự chèo xuống hạ lưu sông Dordogne, thăm Sarlat, thăm các động đá thạch nhũ thần tiên khắp vùng Périgord (riêng tôi rất thích động Proumeysac), thăm thành Castelnau trên một đỉnh núi, gần đó có thể đến bơi trong hồ tắm của Joséphine Baker, hay thăm các ngôi làng hoàn toàn xây trong thành núi đá (villages troglodytes), thăm động tiền sử Lascaux, thăm vùng núi Vercors, chiến khu lừng danh của những người kháng chiến chống Đức trong đệ nhị thế chiến, và khi trở lên phía bắc, nhớ ghé Brantôme, “Venise của vùng Périgord”, v.v...
-BẢY -
Tuy nhiên, “thắng cảnh” đặc biệt nhất ở vùng nam Pháp là Ste Livrade, gần Agen. Nơi đây có một làng Việt Nam dựng nên từ năm 1954, cho những người Việt được Pháp đem đi sau cuộc thảm bại ở Điện Biên Phủ. Đầu tiên, đây chỉ là một trại tỵ nạn, cất theo kiểu trại lính, với vật liệu nhẹ, gỗ và mái nhôm. Sau trại trở thành một ngôi làng với đầy đủ các đặc điểm của làng Việt Nam, như đình, chùa v.v... Người sống ở đây còn bảo tồn gần như hoàn toàn các phong tục truyền thống, cúng giỗ, và cả ... lên đồng ! Họ trồng trọt hoa màu Việt Nam và hiện trở thành nơi sản xuất rau tươi Việt Nam quan trọng nhất cho các chợ Việt Nam tại Paris và các nơi đông người Việt. Họ “đồng hóa” cả một số dân bản xứ quanh đó, khiến những người này cũng gieo trồng hoa màu Việt Nam, ăn cơm Việt Nam và quen thuộc với tập quán Việt Nam.
Chỉ vài năm trước lúc làng Việt Nam được hình thành ở Ste Livrade, thì một nhóm Việt kiều khác sửa soạn khăn gói trở về quê hương. Đó là 25000 công binh và chiến binh Việt Nam đại đa số bị cưỡng bách đưa sang Pháp đóng góp vào cuộc thế chiến thứ hai (thiểu số duy nhất tình nguyện là lính khố đỏ). Lịch sử của họ được Đặng Văn Long, một nhân chứng và học giả kể lại trong một tác phẩm rất giá trị vừa được “Tủ sách Nghiên Cứu” (BP 246 , 75224 Paris Cedex 11) phát hành năm nay, với tựa đề “Người Việt tại Pháp 1940-1954”. Họ là tập thể đông đảo nhất trong số người Việt tại Pháp lúc bấy giờ, có lúc lên đến 4 vạn người. Ngoài họ ra, là một số trí thức còn học hay đã đi làm, cũng như những người bồi bếp, vú em, thủy thủ, thương gia, lính phu bị bắt sang Pháp từ thế chiến thứ nhất.
Đời sống của những người lính tha hương này vô cùng cơ cực. Không những họ bị hành hạ bởi các quan tây trịch thượng rẻ khinh bọn “mọi thuộc địa”, mà còn bị đám đội quản, thông ngôn, giám thị Việt Nam dựa thế Tây mà hống hách bóc lột, ăn lận lương thực, áo quần, giầy dép. Đó là chưa kể đến bọn du đãng hoành hành trong các căng trại, với các tệ nạn say sưa, cờ bạc, đĩ điếm... bòn rút của những người lính xa nhà này chút lương tiền chắt chiu còn dành dụm được. Đa số đều không biết chữ, kể cả chữ quốc ngữ, đừng nói chi đến chữ Pháp, nên chẳng thể nào tự bảo vệ quyền lợi của mình. Ai rục rịch phản kháng là lập tức bị tống giam trong điều kiện cùm gông tàn nhẫn, thời gian không dưới ba tháng rưỡi. Đói lạnh, ăn ở thiếu vệ sinh mà lỡ có đau ốm thì phải đút lót hối lộ mới được chạy chữa, kể cả trong bệnh xá dành cho họ. Một thống kê thực hiện trên 14846 Công Binh, cho biết có 1050 người chết, đại đa số do bệnh tật, tức hơn bảy phần trăm, con số tử vong cao hơn bất cứ tập thể quân hay dân sự nào ở Pháp trong cùng thời kỳ. Một số công binh đi làm cho các sở tư, thì bị ăn chặn tiền lương, chỉ được lãnh có 1 phần 6 số lương chủ trả...
Trong tình trạng bi đát ấy, tiểu tổ BL của phong trào Đệ Tứ Quốc Tế hình thành, với sáu người, gồm những người đào ngũ. Sau khi nước Pháp được giải thoát khỏi sự đô hộ của Quốc Xã Đức, binh sĩ Việt Nam tại Pháp nhân dịp đứng lên đòi hỏi cải thiện đời sống. Họ lập nên các Ủy Ban Đại Diện, với sự yểm trợ của nhóm Đệ Tứ nói trên, và thành lập các tổ chức thanh niên thể thao, tương tế, tự vệ, v.v... Bộ mặt các “căng trại” thay đổi, bọn cường quyền phải e dè, và đời sống binh sĩ Việt Nam trở nên tốt đẹp hơn. Nạn mù chữ cũng bị đẩy lùi, một thành công lớn, cùng với việc dạy nghề cho binh sĩ. Phong trào tự quản thành công của Công Binh đưa đến ý thức cần đi đến sự thành lập một Ủy Ban Đại Diện chung cho toàn thể Việt kiều tại Pháp, với một mục tiêu xa hơn là tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà. Công việc tiến hành khả quan với sự hình thành của một Ủy Ban Lâm Thời, gồm các nhân vật Đệ Tứ và Quốc Gia, trong khi phe CS hậu thân của Đệ Tam Quốc tế kịch liệt tẩy chay việc này. Đến tháng chạp năm 1944 thì Tổng Ủy Ban Đại Diện Việt Kiều ra đời sau một Đại Hội ở Avignon. Hoạt động của Tổng Ủy Ban trước dư luận bản xứ là những đòn nặng đánh vào chính sách thực dân của Pháp. Chính quyền bản xứ ra lệnh giải tán Tổng Ủy Ban Đại Diện Việt Kiều vào tháng 10 năm 1945, và bắt giam một số đại biểu. Hai tháng sau, một Đại Hội được triệu tập tại Mazargues, và một tổ chức khác ra đời, lấy tên là Việt Kiều Liên Minh.
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh trở sang Pháp, thì Việt Kiều đã có tổ chức, nhưng không phải được tổ chức dưới ngọn cờ của Đảng CS. Người Đệ Tứ lại có mặt trong hầu hết các tổ chức Việt Kiều, những người Đệ Tứ mà ông Hồ và các đồng chí Đệ Tam của ông đã gần như giết sạch trong quốc nội. Vì thế đảng CS không ngớt tấn công các tổ chức Việt Kiều đã được thành lập, bằng cách gây chia rẽ giữa người Quốc Gia và Đệ Tứ, rồi giữa Công Binh với nhau ... Với Trần Ngọc Danh, người đại diện của chính phủ Hồ Chí Minh tại Pháp, những màn vu khống bôi bẩn đại diện Công Binh được giàn dựng công phu. Ông Danh liên kết với thành phần du đãng lưu manh không còn hoành hành được ở các căng trại nhờ chính sách tự quản của các Ủy Ban Đại Diện, để trở lại khuấy nhiễu đời sống của Công Binh, hành hung đại biểu, phá phách rồi gọi cảnh sát đến điều tra, khám xét. Đảng CS Pháp lúc ấy cũng nằm trong chính phủ, nên có sự đồng lõa bên phía công quyền, cảnh sát. Trong một cuộc ẩu đả do phe CS gây ra ở trại Mazargues, năm người thiệt mạng, Công Binh phụ trách Ủy Ban Tự vệ bị cảnh sát bắn chết, hàng chục người bị thương nặng, nhiều người tàn phế. Chưa hết, một số Công Binh còn bị truy tố ra tòa và phải lãnh án mặc dù không có bằng chứng gì để buộc tội họ. Mặc dù tốn nhiều công sức với những phương tiện bá đạo và phi nhân, phe CS đệ tam cũng không kéo được những người Công Binh đã quen với sinh hoạt dân chủ về với chủ trương độc tài của họ (trong số 60 đại đội, gọi là cơ, compagnie, thì chỉ có một cơ rưỡi theo CS đệ tam).
Khi đa số Công Binh về nước, khoảng 1000 người ở lại Pháp, và tổ chức đại diện Công Binh biến thành Hiệp Đoàn Thợ Việt Nam, với báo “Tiếng Thợ” , tiếp tục truyền thống cũ. Câu chuyện thường bị lãng quên của họ là câu chuyện của những đồng bào xa quê hương xứ sở, đã từ một tình trạng bị đối xử như súc vật, như nô lệ, không những vươn lên tranh thủ được quyền sống như những con người, mà còn vận dụng ý thức chính trị của mình để tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà. Họ là những con người đã giác ngộ phẩm giá của mình và hành động để phẩm giá ấy cũng như phẩm giá của mọi con người khác được tôn trọng. Ngày nay, những vị còn lại trong số họ đã lớn tuổi, nhưng vẫn còn nỗ lực hoạt động dưới sự điều khiển của Hoàng Khoa Khôi, hưu trí tại Paris.
Lịch sử người Việt tại Pháp còn có thể đem ta lùi về xa hơn rất nhiều trong quá khứ, không chừng phải lần lên đến tận Hoàng Tử Cảnh, tới Pháp năm 1787, tại Lorient, không xa nơi tôi ở, sau một cuộc hành trình hơn hai năm rưỡi ! Hoàng Tử Cảnh lúc ấy đã ký hiệp ước nhận đóng góp binh sĩ cho Pháp khi cần, và sau này triều đình Huế năm 1939 lại ký một thỏa ước nhượng cho Pháp 5 trăm ngàn người gửi sang “mẫu quốc”, nhắc cho chúng ta nhớ một trong những nguyên do của thảm kịch bắt phu, bắt lính vừa kể qua. Không thể nói hết chuyện người Việt tại Pháp từ thế kỷ 18, tôi xin nhắc qua với bạn về vài việc, vài người có tiếng tăm, ở gần chúng ta hơn, từ các thập niên 20 và 30 của thế kỷ này.
Năm 1920, tại Hội Nghị Tours của phong trào thợ thuyền, lần đầu tiên một đại biểu người Việt lên diễn đàn phát biểu, đó là Nguyễn Ái Quốc, “hóa thân” của “bác Hồ vĩ đại” sau này. Lúc ấy ông còn hoạt động chung với nhóm của cụ Phan Châu Trinh tại Pháp. Trong nhóm này còn có Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, mới 21 tuổi, học luật ở Paris, và Nguyễn Thế Truyền học khoa học ở Toulouse, rồi văn khoa ở Paris. Cụ Phan Châu Trinh làm thợ hình ở Pons. Năm 1923 Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đi Moscou học làm cách mạng chuyên nghiệp, mặc dù sự ngăn cản của cụ Phan Châu Trinh (thư còn lưu lại). Ở Hội Nghị Tours nói trên, Léon Blum, sau làm thủ tướng, chất vấn phe Cộng Sản đệ tam rằng :“các ông muốn lấy chính quyền để cải tạo xã hội hay muốn sử dụng chiêu bài cải tạo xã hội để lấy chính quyền ?” Quả là câu hỏi căn bản luôn phải được đặt ra với người CS. Sau Hội Nghị Tours, phe Xã Hội duy trì tổ chức SFIO (phân bộ Pháp của Quốc Tế Thợ Thuyền, còn gọi là “sách dép dzô") tách khỏi nhóm thần phục Liên Sô. Nhóm này trở thành Đảng Cộng Sản Pháp. Trong thập niên 20 người ta còn thấy ở Pháp nhiều nhân vật Việt Nam khác sau này có ảnh hưởng đến chính trị Việt Nam, như các ông Tạ Thu Thâu, Dương Văn Giáo, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Trịnh Đình Thảo, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Ân, v.v... Về tổ chức thì có các đảng chính trị như :
-đảng An Nam Độc Lập (Parti Annamite de lIndépendance) của Nguyễn Thế Truyền, sau giao lại cho Tạ Thu Thâu,
-đảng Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo - đảng CS đệ tứ với lãnh tụ Tạ Thu Thâu, và các đồng chí Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà...
-đảng CS đệ tam với Liêu Sanh Trân sau làm tới ủy viên trung ương của đảng CS Pháp, rồi chết vì lao phổi, Nguyễn Văn Tạo, sau làm bộ trưởng Lao Động, Trần văn Giàu...
-và có thể còn những đảng phái khác mà tôi quên đi hay không được biết.
Ngoài ra, trên mặt tương trợ thì có hội AMI (Association Mutuelle des Indochinois - Hội Tương Trợ Đông Dương) do Trần Văn Thọ làm chủ tịch, Trần Văn Ân làm chủ tịch danh dự, trụ sở ở số 10 rue Torte, Vieux Port, Marseille. Trần Văn Thọ là người đánh Đốc Phủ Nguyễn Văn Vịnh bể đầu khi ông này nhận lệnh Thống Đốc Nam Kỳ Pagès (hay Blanchard de la Brosse ?) sang Pháp yêu cầu tăng cường trừng trị những người chống đối chính quyền thực dân như Nguyễn An Ninh. Ông Thọ làm bồi tàu, chờ Đốc Phủ Vịnh xuống đến bến Marseille, vừa ra khỏi quan thuế thì dùng gậy hành hung ông. Lúc đó, có người Pháp tên là Frascetto, chủ khách sạn và nhà hàng Continental, nhảy tới bênh vực đốc phủ Vịnh, đập nhau với ông Thọ. Việc này do cụ Trần văn Ân chứng kiến kể lại (vào năm 95 tuổi !). Trần Văn Ân do sự khuyến cáo của LS Dương Văn Giáo, tổ chức biểu tình chờ sẵn đốc phủ Vịnh trên bến, nhưng cấm không cho ai đem theo vũ khí. Ông Thọ ra tòa, được luật sư CS tên là Henry biện hộ, sau trong tù học được nghề đan ghế !
Về nhân vật xin kể qua :
-Dương Văn Giáo làm luật sư, tổng thư ký đảng Lập Hiến, nhà ở số 39 đường Dufour - Paris 6è, mãi tận lầu 6, ai đến thăm leo hụt hơi ! Ông có tài biện hộ, mặc dầu làm biếng đọc hồ sơ. Năm 1928, ông về Việt Nam, và đến năm 1941 bị ra tòa vì tội phản loạn cùng với Phan Khắc Sửu, Võ Oanh, Trần văn Ân, Trần Quốc Bửu, Ngô Đình Đẩu, v.v..., tức những người chủ trương đảng Nhân Dân Cách Mạng (luật sư biện hộ là Trịnh Đình Thảo). Ông trốn khám Tây rất tài tình, để rồi bị giết trong tay CS đệ tam năm 1945, ở Phan Thiết.
-Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh nông, một trong những người đầu tiên đi khắp nước Pháp diễn thuyết chống chế độ thuộc địa, thành lập đảng Lập Hiến, sau bị CS sát hại tại Tân An năm 1945.
- Nguyễn Thế Truyền lập đảng Độc Lập, sau có tranh cử Tổng Thống với ông Ngô Đình Diệm.
-Hồ Văn Ngà học Centrale, trường kỹ sư danh tiếng, Đệ Tứ, bị CS đệ tam giết ở Kim Quy Đá Bạc, Rạch Giá, năm 1945 (ông Ngà bị nhốt chung với Trần Quang Vinh, một tối được anh gác khám là học trò cũ mời về nhà dùng cơm, rủi thay trong lúc đó Nguyễn Thành Phương và Vũ Tam Anh đến phá khám cứu thoát ông Vinh, hôm sau H.V.Ngà bị đập chết bằng củi đòn)
-Tạ Thu Thâu, sang Pháp năm 1927, đem theo 10 học trò nhà giàu để có tiền tàu và tiền ăn, học toán đại cương ở Sorbonne, Paris, lãnh tụ đệ tứ lỗi lạc, sau thay Nguyễn Thế Truyền làm chủ tịch đảng Độc Lập. Báo của đảng là tờ “Hồi Sinh” (Résurrection). Đảng Độc Lập bị giải tán sau vụ ẩu đả với thanh niên cực hữu Pháp ở nhà hàng Turquetti vào năm 1929, có Đỗ Đình Thạch tức Pierre Đỗ Đình tham dự. Ngày 24 tháng 6 năm 1930, vì tổ chức biểu tình chống thực dân sau vụ Yên Bái, ở trước điện Elysée, Tạ Thu Thâu bị trục xuất cùng với 19 người trong đó có Phan Văn Hùm, Phan Văn Gia, Hồ Văn Ngà, Trần văn Giàu, Nguyễn văn Tạo, Trần văn Phú, Vũ Liên... Ông bị CS đệ tam giết ở Cánh Đồng Dương, Quảng Ngãi, năm 1945. Học trò ông là Hoàng Đôn Trí sau này tiếp tục phong trào Đệ Tứ ở Pháp, đặc biệt trong giai đoạn Công Binh đã nói ở trên.
-Trần Văn Giàu học ở Toulouse, là người có đại công với CS đệ tam ở miền Nam Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến. Tạ Thu Thâu rất thương Giàu, có sách vở gì hay, đều đem cho Giàu đọc. Giàu là người lãnh trách nhiệm trực tiếp trong việc giết Tạ Thu Thâu. Như nhiều người miền Nam khác có công với CS, ông không được trọng dụng, và “lêu têu cứu quốc” đến bây giờ. Cách đây vài năm ông có sang Pháp dự một hội nghị về sử học. Ông Giàu có tiếng là một lý thuyết gia Marxiste có tầm cỡ.
-Trần văn Thạch học Văn Khoa ở Toulouse, đỗ Cử Nhân, cùng với Phan Văn Hùm, cao đẳng Công Chánh, là những tinh hoa của Đệ Tứ, đều bị CS đệ tam bắt ở Thủ Đức vào tháng 10 năm 1945, rồi bị đập đầu liệng xuống sông cùng với ít nhất là 64 người Đệ Tứ khác, tại Phan Thiết.
-Trần Văn Ân, sang Pháp với hai học trò nhà giàu để có tiền ăn tiền tàu, học Arts et Métiers tại Aix en Provence cùng với Trần Văn Bạch, sau hết tiền và bệnh nặng phải bỏ học. Ông ở Aix số 29 đường République, thuê nhà của ông Larger, cựu chiến binh Đông Dương. Ông Larger có vợ người Bắc. Bà nói chuyện nửa tây nửa ta, kiểu như muốn dặn đóng cửa coi chừng gió đập bể tủ thì bà bảo : “ắt tăng xông gió tắp cái đùng già na cát xê tủ !”. Cùng ở Aix lúc đó có Nguyễn Văn Tạo và Liêu Sanh Trân. Trần Văn Ân làm chủ tịch danh dự hội Tương Trợ Đông Dương, chủ bút An Nam Học Báo (LAnnam Scolaire - báo này bị cấm đưa vào Đông Dương), vào đảng Độc Lập, thân với Thâu, Thạch, Hùm, Chánh, và nhóm Đệ Tứ, bạn vong niên của Dương Văn Giáo, năm 1927 làm phó chủ tịch Đại Hội Sinh Viên Đông Dương. Sau nhờ bạn bè quyên tiền tàu, ông mới theo được tàu Pasteur về nước, làm báo, tham chánh nhiều lần và ngồi tù tử hình Côn Đảo 9 năm. Năm 1948, đang làm Tổng Trưởng Thông Tin cho Chính Phủ Lâm Thời Nam Phần Việt Nam, ông bị Tướng de la Tour dọa giết vì hành vi chống thực dân, nên trở sang Pháp lánh nạn và đi diễn thuyết chống thực dân nhiều nơi, nổi bật nhất là vào tháng 10 năm 1948 tại Palais de la Mutualité (nơi Tổng Hội Sinh Viên Paris hay tổ chức Tết sau này), dưới sự chủ tọa của Chủ Tịch Liên Minh Nhân Quyền (Ligue des Droits de lHomme). Ông giao thiệp với đảng viên xã hội SFIO (sách dép dzô !), và nhờ sự can thiệp của họ để được trở về nước, tiếp tục hoạt động.
Một việc đáng chú ý của giai đoạn này là Đại Hội Sinh Viên Đông Dương lần thứ nhất họp tại Aix en Provence, năm 1927, từ ngày 19 đến 22 tháng 7, quy tụ đại biểu các nơi. Ủy ban tổ chức do Luật Sư Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch, Trần Văn Ân làm Tổng Thư Ký. Ông Thảo sau là một trong những sáng lập viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Sau khi khai mạc, Đại Hội bầu Trần Văn Thạch làm Chủ Tịch, Trần Văn Ân làm Phó, Dương Văn Giáo làm báo cáo viên. Trong số những người tham dự có Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh (đang đi một vòng diễn thuyết), Nguyễn Văn Báu (sau làm Đốc Phủ, Đổng Lý cho Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân, rồi làm Bộ Ngoại Giao thời Thủ Tướng Nguyễn Phan Long). Đại Hội yêu sách nhiều điều với chính quyền Pháp, cho sinh viên du học, và cho nền giáo dục ở Việt Nam.
Đến đây, chúng ta có thể tóm lược lịch sử của người Việt tại Pháp như sau : 1787, Hoàng Tử Cảnh đến Pháp, mở đầu một loạt những giao tiếp Việt Pháp. Có những giao tiếp bi đát như việc quan Hiệp Biện Đại Học Sĩ Phan Thanh Giản sang sứ xin chuộc ba tỉnh Nam Kỳ, năm 1863, cùng với Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản. Mặt khác, dấu tích xưa nhất của “sinh viên” Việt Nam du học Pháp Quốc có lẽ là những người Nghệ An Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều, Nguyễn Đức Hậu, về nước vào khoảng năm 1866, được biết đến nhiều qua bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, kêu gọi canh tân đất nước. Làn sóng người Việt đầu tiên lan đến nước Pháp có lẽ là những lính phu bị bắt sang phục vụ trong thế chiến thứ nhất (1914). Tôi từng được gặp một cụ già Việt Nam trong trường hợp này, tại một quán cà phê trong khu Maubert, Paris. Cần nói là cũng trong giai đoạn ấy đã có những người Việt Nam thuộc giới thượng lưu sang Pháp học hành, và gia nhập quân đội với cấp bậc cao, như Nguyễn Văn Xuân, cựu sinh viên trường Kỹ Sư lừng danh Polytechnique (trường này cho đến cách đầy vài năm thuộc Bộ Quốc Phòng). Trong đệ nhất thế chiến, ông là một đại úy từng lập những chiến công hiển hách, khiến ông được thăng chức nhanh chóng và mang lon Tướng (Trung Tướng ?) năm 1947 khi về Việt Nam đảm nhận chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ Lâm Thời Nam Phần Việt Nam, rồi Thủ Tướng hai miền Việt Nam sau đó. Làn sóng người Việt kế tiếp là những chiến binh Việt Nam phần lớn cũng bị cưỡng bức sang Pháp vào thế chiến thứ hai. Câu chuyện của họ vừa được chúng ta lược qua. Làn sóng thứ ba, quan trọng nhất, chính là làn sóng người tỵ nạn CS từ năm 1975. Giữa các làn sóng này là những sinh viên sang Pháp du học, từ cuối thế kỷ 19 đến nay. Con số du học sinh này lên rất cao trong thời chiến tranh Việt Nam, với tỷ số người ở lại cũng rất đông, tạo thành một cộng đồng Việt Nam tại Pháp, với ít nhiều tổ chức. Chiến tranh Việt Nam cũng là đầu mối của sự phân chia cộng đồng này thành hai phe thân chính quyền Sài Gòn hay Hà Nội. Phe chống chính quyền Sài Gòn được nuôi dưỡng bởi không khí tả khuynh, chống Mỹ, của giới trí thức Pháp, nên phải nói là phát triển rất mạnh. Sau năm 1975, làn sóng người tỵ nạn đem lại cho phe chống chính quyền Hà Nội một chính nghĩa hiển nhiên, và thật nhiều nhân sự, với những cơ cấu và tổ chức cộng đồng mới. Rồi thời “đổi mới” của CS Việt Nam khiến tư thế đối nghịch “Quốc - Cộng” trong tập thể người Việt có sự thay đổi. Người ta phải thích nghi với những thái độ mới, như về thăm Việt Nam, gửi tiền về giúp gia đình (biết rằng đồng thời cũng giúp chế độ CS Việt Nam), thậm chí đầu tư làm ăn buôn bán với Việt Nam. Vì thế, một số cấu trúc, tổ chức, dần dần thay đổi, hay biến mất, và một số tổ chức mới ra đời, với những chủ trương như “hòa hợp hòa giải”, “chống đối chừng mực” (trường hợp của những người thân Hà Nội lúc trước nay bỏ ra chống đối), v.v...
Cần nói là tập thể người tỵ nạn CS Việt Nam tại Pháp cũng bao gồm nhiều đồng hương đến từ Ai Lao, với những sắc thái sinh hoạt đặc thù. Thường họ không phải trốn tàu như các “boat people”, mà chỉ vượt sông Mekong, nên mang theo được nhiều của cải hơn, lại đến Pháp tương đối sớm, lúc những trợ cấp còn dồi dào, nên nói chung, buổi ban đầu sinh sống của họ trên đất Pháp dễ chịu hơn. Họ cũng hay sống gần nhau theo sự quen biết từ bên Lào, và thường vẫn tham gia các sinh hoạt của người Lào tại Pháp (nhiều người vừa mang tên Lào, vừa mang tên Việt). Tính tình họ cũng dễ dãi, ham vui và khả ái như người Lào, nên các hội đoàn có nhiều người Việt đến từ Ai Lao thường xem sự đóng góp của họ như một ưu điểm lớn.
Đời sống của hơn 200 ngàn người Việt tại Pháp thường không khác ở các nước Âu Mỹ là bao. Thời “sinh viên”, các anh em ở lại lập nghiệp nơi xứ này thường làm những nghề nghiệp trí thức, bác sĩ, kỹ sư, như truyền thống người mình thường ham chuộng. Vì mặc cảm ngoại quốc, các sinh viên tốt nghiệp thường thích đi làm công cho các hãng xưởng hay cho chính phủ hơn là nhảy ra làm nghề tự do. Khi làn sóng tỵ nạn CS lan đến, thì bắt đầu có nhiều đồng hương làm nghề lao động, thương mại (phần nhiều là tiệm ăn), cũng như xuất hiện thêm nhiều nhi đồng Việt Nam trong các trường Trung, Tiểu học. Phải nói là tại Pháp cơ hội tiến thân không được dồi dào như ở Hoa Kỳ chẳng hạn, nên người tỵ nạn đến đây khó mà tìm lại được công việc và địa vị xã hội của mình ở Việt Nam trước đó. Ngay cả sinh viên Việt Nam tốt nghiệp tại Pháp cũng khó mà “leo” được như khả năng của mình cho phép, nếu đem so sánh với các bạn có cùng trình độ ở Mỹ. Tuy vậy, cũng có những người thành đạt vẻ vang ở Pháp, như bạn có thể đọc được trong các tuyển tập “Vẻ Vang Dân Việt” do nhà báo Trọng Minh chủ trương (nay đã ra đến Tập Ba).
Tôi xin kể với bạn trường hợp một gia đình tỵ nạn đến Pháp, vào ở Trung Tâm tỵ nạn Rennes. Các em nhỏ được vị Giám Đốc cho đi học tiếng Pháp rồi bắt chuyển sang học nghề. Thân phụ các em phản đối, đòi các con mình, nhất là người con trai lớn, phải được học trường kỹ sư, vì em rất giỏi toán. Giám Đốc Trung Tâm nhất định không chịu, khiến bác tỵ nạn này phải rời Trung Tâm sớm hơn thời hạn, mất một số quyền lợi (dường nhu lúc ấy người tỵ nạn được “nuôi” trong Trung Tâm khoảng một năm hay 18 tháng chi đó). Ông tự lực tìm trường cho người con lớn, một việc vô cùng phức tạp ở cái nước Đại Phú Lang Sa này, và ghi danh cho em vào INSA Lyon, một trường kỹ sư hạng trung bình. Em học quá giỏi khiến các giáo sư đề nghị luyện cho em thi vào Centrale, một trường danh tiếng, ngang hàng với Polytechnique. Em đỗ đầu, và nay đã tốt nghiệp ra đi làm, với một địa vị xứng đáng. Các em của em đều học khá, một cô làm bác sĩ chuyên khoa, em khác dường như học dược...
(xem tiep : http://nguyenhoaivan.com/?do=news_detail&id=73&kind=5)